Danh thắng biến dạng-Bài 2: Văn hóa bản địa phôi pha

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Ngoài cảnh sắc thiên nhiên, điều hấp dẫn đặc biệt đối với du khách nước ngoài khi đến Việt Nam chính là những văn hóa bản địa đặc sắc của 54 dân tộc anh em. Thế nhưng, những nét đẹp văn hóa này cũng đang bị biến dạng trước nhu cầu thương mại hóa.  

Nếu không xác định được đâu là giá trị cốt lõi để phát triển du lịch, có lẽ đến một ngày, chúng ta chỉ còn biết tiếc nuối, nhất là khi nhìn du khách quốc tế đổ về các nước giữ bản sắc văn hóa rất tốt như Nhật Bản, Hàn Quốc...

 
Du khách muốn đến vùng cao để tìm hiều về những nét đẹp văn hóa đặc sắc nơi đây.
Du khách muốn đến vùng cao để tìm hiều về những nét đẹp văn hóa đặc sắc nơi đây.

Lễ hội bị thương mại hóa

Tại Việt Nam, phát triển du lịch gắn liền với văn hóa bản địa đã trở thành hướng đi được nhiều địa phương vận dụng thành công, tạo sức hấp dẫn đặc trưng riêng. Du khách được trực tiếp tham gia vào sinh hoạt văn hóa cộng đồng, vào chuỗi lễ hội đặc sắc, mang đậm dấu ấn bản địa. Chẳng hạn, tại vùng Tây Bắc là các lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn - Hà Giang, lễ cấp sắc của người Dao đỏ (Sa Pa), tết của người Hà Nhì… Mỗi lễ hội sẽ giới thiệu với du khách những “đặc sản” theo mùa của đồng bào vùng cao. Tại Huế, nhã nhạc cung đình đang được lồng ghép trong nhiều tour. Ở Tây Nguyên, du khách được đắm mình vào không gian văn hóa cồng chiêng. Đến đồng bằng sông Cửu Long, du khách được thả hồn vào đờn ca tài tử trên sóng nước, giữa những miệt vườn.

Tuy nhiên, điều đáng buồn là những lễ hội này lại đang mang màu sắc thương mại quá đà, khiến nó mất đi nét đẹp truyền thống vốn có. Mặc dù thu hút được đông đảo khách tham quan nhưng ấn tượng để lại trong lòng họ như thế nào lại chưa được các địa phương quan tâm. Chị Nguyễn Thanh Giang, thành viên của một diễn đàn du lịch, cho biết: Tôi rất sợ đi chơi mùa lễ hội vì những ngày này du lịch địa phương thường bị quá tải. Chỗ ăn, nghỉ không tốt nhưng điều chán nhất là lễ hội quá xô bồ, các sinh hoạt văn hóa truyền thống được sân khấu hóa khiến tôi không cảm nhận được nhiều về nét đẹp riêng có của những vùng đất này.

Không chỉ lễ hội, ngay như chợ tình Sa Pa, vốn là nét quyến rũ rất riêng của vùng Tây Bắc, nay cũng biến dạng, không còn giữ được bản sắc. Chợ tình tại chợ đêm Sa Pa giờ có nam, có nữ, có gặp nhau, có hát múa nhưng biểu diễn một cách vô hồn, lại có cả hành vi xin tiền, chưa kể nạn cò mồi, bán hàng rong đeo bám khách rất phiền.

Tương tự, khu chợ cổ của Đồng Văn, nơi được ví là điểm hẹn trong mỗi buổi chợ phiên của đồng bào nơi đây, sau khi được cải tạo đã biến thành một tổ hợp dịch vụ với cà phê, ăn uống… lấp lánh đèn màu. Theo nhận xét của nhiều du khách, những thay đổi này đã khiến không gian văn hóa chợ Đồng Văn nhạt nhẽo, không khác biệt so với những khu phố tây ở các khu du lịch, nhàm chán và thiếu hẳn sắc màu văn hóa. Những buổi múa sạp tại quán cà phê cổ ở thị trấn Đồng Văn mà chúng tôi được thưởng thức hầu như chỉ phục vụ du khách với điệu nhảy đơn giản nhất, không phải là những màn múa sạp điêu luyện, say mê của những chàng trai, cô gái trong trang phục dân tộc. Những điệu múa khèn trong một không gian chật hẹp cũng khiến cho những làn điệu phóng khoáng, dịu dặt của tiếng khèn Mông như bị cầm tù. Không được bảo tồn nguyên trạng khiến du khách có cảm giác như chỉ được xem hàng nhái.

Thiếu hỗ trợ khách trải nghiệm văn hóa

Rất nhiều du khách khi đến vùng cao đã tìm hiểu trước về những nét đẹp văn hóa đặc sắc của điểm đến và mong muốn được trải nghiệm thật sự, chứ không phải chỉ nghe và nhìn. Một trong những nét đặc sắc của văn hóa vùng cao là dệt thổ cẩm, thế nhưng thổ cẩm được bán đầy ở chợ đêm hay phố cổ lại chỉ toàn hàng rẻ tiền nhập từ Trung Quốc. Du khách muốn biết thổ cẩm thật ở đâu, cái khung cửu dệt vải của đồng bào có hình thù ra sao, ngồi dệt từng sợi thế nào, thì lại không dễ. Trong một số tour có giới thiệu về thổ cẩm, du khách cũng chỉ được giới thiệu rất sơ lược và họ không hiểu, không cảm nhận được vì sao dệt thổ cẩm lại cần đến vài tháng cho một bộ váy, vì sao những đường nét hoa văn của thổ cẩm Sa Pa lại khác thổ cẩm của bất cứ vùng nào.  

Để hòa mình vào văn hóa bản địa, khách chọn hình thức nghỉ homestay nhằm trải nghiệm nếp sống của người dân, xem họ ăn ở ra sao, có những phong tục tập quán gì. Tuy nhiên, nhiều du khách không có được điều mình muốn và cũng vì thế, những ấn tượng về điểm đến không còn sâu sắc nữa. Tại một điểm homestay ở Quản Bạ, tuy ông chủ rất mến khách, phục vụ ăn nghỉ tương đối tốt, nhưng điều chúng tôi nhận được ở đây chỉ là một đêm ngủ tạm dọc hành trình chứ chưa có được cái gọi là cảm nhận về đời sống thực của người dân nơi đây. Do phát triển một cách tự phát, mạnh ai nấy làm, kỹ năng làm du lịch kém, ngoại ngữ yếu…, du khách nước ngoài gần như không hiểu thêm điều gì, từ món ăn đến phong tục, tập quán sinh hoạt của người dân. Đây cũng là tâm sự của anh Simon đến từ Bỉ trong hành trình chinh phục cung đường Hạnh Phúc (Hà Giang) cùng với mẹ bằng xe gắn máy mà chúng tôi gặp gỡ ở homestay Nậm Đăm.

Đánh thức các giá trị văn hóa đặc sắc, biến chúng thành sản phẩm du lịch độc đáo đang là một hướng đi được nhiều nước trên thế giới lựa chọn. Thống kê của tổ chức du lịch thế giới cho thấy, du lịch văn hóa đóng góp khoảng 37% doanh thu du lịch toàn cầu và được dự báo có thể tăng khoảng 15% doanh thu mỗi năm. Chúng ta đang có lợi thế rất rõ rệt về văn hóa bản địa với sự góp mặt của 64 dân tộc anh em. Thế nhưng, giữ gìn, khai thác những lợi thế này như thế nào trong bối cảnh du lịch, giao thương phát triển ồ ạt như hiện nay quả thật không dễ dàng. Thật đáng suy nghĩ khi nhìn cách Nhật Bản, Hàn Quốc đang làm du lịch. Họ biết cách tạo không gian cho những sinh hoạt văn hóa được bảo tồn gần như nguyên trạng. Họ để du khách được trực tiếp tham gia vào các sinh hoạt văn hóa đó, ví dụ như tự làm kim chi, tự tay dệt vải hay pha trà… Du khách cảm nhận rõ nhất về những nét văn hóa đặc sắc bản địa của họ.

Ông Vũ Thế Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam, cho rằng, phát triển du lịch gắn liền với văn hóa bản địa đã trở thành hướng đi được nhiều địa phương vận dụng thành công, làm nên thương hiệu cho điểm đến. Tuy nhiên, làm thế nào để bảo tồn được nét đẹp văn hóa đúng như nó vốn có thì nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm. Bài học từ các nước phát triển du lịch thành công cho thấy, càng giữ được nguyên trạng văn hóa bản địa, càng tạo điều kiện cho du khách cảm nhận sâu sắc những nét đẹp văn hóa thì các điểm đến sẽ càng có sức hấp dẫn đặc trưng, lâu bền đối với du khách.

Bích Quyên-Thu Hà/sggp

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.

Người gieo ánh sáng yêu thương

Người gieo ánh sáng yêu thương

Bị khiếm thị từ nhỏ, song Lã Minh Trường, sinh năm 2001, nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật TP Hà Nội, đã vươn lên trong học tập, thi đấu thể thao và tích cực hoạt động công tác xã hội trong 5 năm qua.