Có một miền đất võ tôi yêu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Tôi đã từng có dịp lội dọc đôi bờ sông Côn từ thượng đến hạ nguồn, từ nơi phát nguyên đến cửa lạch cuối cùng đổ về biển cả của dòng sông quê lớn nhất xứ Nẫu. Những làng mạc ven bờ con sông hiền hòa ấy gợi lên bao dấu ấn về làng quê xứ Việt một thời với cuộc sống thanh bần của những người nông dân một nắng hai sương. Nhưng lớp áo vải mang màu bùn đất trong những làng quê mộc mạc đó đã chứa đựng một nội lực của tinh thần võ sĩ đạo, tạo nên thứ trầm tích văn hóa võ đạo được mang tên dòng võ Tây Sơn “danh bất hư truyền” làm nòng cốt cho phái võ Bình Định ngày nay lừng danh thiên hạ. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Sông Côn được định danh của tên một loại binh khí phổ thông trong các hệ phái võ cổ truyền. Côn là chiếc gậy bằng nhiều loại vật liệu, nhưng phổ biến nhất là gỗ, tre, thứ mà người dân quê có thể dễ tìm thấy bất cứ nơi đâu quanh mình.
Ngày nay, ai có dịp về thăm xứ Nẫu đều thích thú và tò mò với câu ca “Ai về Bình Định mà coi/Con gái Bình Định múa roi, đi quyền”. Ngày xưa, việc luyện võ, học võ hầu như chỉ dành cho phái mạnh, cũng như việc học hành, thi cử. Đó là do quan niệm “trọng nam khinh nữ” của thời phong kiến tồn tại lâu đời. Nhưng đặc biệt, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt đã có nhiều trường hợp ngoại lệ, giới liễu yếu đào tơ ấy đã âm thầm luyện võ, học văn để rồi khi nước nhà nguy biến đã đứng lên xưng vương, khởi nghĩa đánh đuổi quân thù xâm lược như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Thời Tây Sơn, ngoài “thất hổ tướng” còn có “ngũ phụng thư”-5 vị nữ tướng tài danh mà nổi bật là Đô đốc Bùi Thị Xuân. Vị nữ tướng này được mệnh danh là “Cân quắc anh hùng”, theo thầy luyện võ từ nhỏ bên dòng sông Côn hiền hòa nằm ở phía Đông Phú Phong (huyện Tây Sơn ngày nay). Khi cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổi lên, bà đã cùng đội nữ binh về với Tây Sơn Tam kiệt và từ đó cầm quân xông pha trận mạc, trở thành một nữ tướng dũng mãnh không thua kém đức lang quân là Thái phó Trần Quang Diệu. Có lẽ câu ca trên có xuất xứ từ vùng đất võ Phú Phong xưa với phong trào luyện võ phổ biến trong giới nữ, nơi quê hương người anh hùng “áo vải cờ đào” một thời oanh liệt.
Yếu tố căn bản nào khiến Bình Định được mệnh danh là miền đất võ? Trong hồ sơ đề nghị công nhận võ cổ truyền Bình Định là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012, các nhà nghiên cứu đã bình luận: “Với bề dày lịch sử và những giá trị tinh hoa được khẳng định, gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ, với khả năng lan tỏa rộng rãi trong đời sống quá khứ và đương đại, võ Bình Định là hiện tượng văn hóa đặc sắc của vùng đất mà nó sinh thành, góp phần làm giàu bản sắc Việt Nam” (Trần Thị Huyền Trang). Nói đến võ Bình Định, người ta không thể không nói đến phái võ Tây Sơn lừng danh một thời. Tây Sơn là vùng đất được những cư dân Việt định cư, khai khẩn sớm nhất thuộc xứ Đàng Trong, khi chúa Nguyễn bắt đầu lập dinh trấn Quảng Nam. Những người con nước Việt “mang gươm đi mở cõi” đã mang theo bao hoài bão. Nhưng buổi đầu trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh triền miên, nơi miền đất lạ, họ phải lập thân bằng võ nghiệp; lấy sức mạnh và sự can trường để tồn tại trước thiên nhiên khắc nghiệt và dã tâm của con người thời loạn.
Luyện võ bên tháp Bánh Ít (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Ảnh: K.N.B
Luyện võ bên tháp Bánh Ít (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Ảnh: K.N.B
Theo sử sách ghi lại, lớp võ nhân đầu tiên ở vùng Tây Sơn dựng nên nghiệp võ có lẽ phải kể đến thầy Trương Văn Hiến, Ngô Mãnh… là người Đàng Ngoài, giỏi cả văn lẫn võ, có thân tộc làm quan cho chúa Nguyễn Đàng Trong nhưng vì bất mãn với triều thần mà bỏ đi tìm vùng đất mới sinh kế. Thời kỳ thịnh hành võ nghiệp ở Tây Sơn nói riêng và phủ Hoài Nhơn, phủ Quy Nhơn nói chung là thế hệ sau được đào tạo bài bản bởi những người tinh thông võ nghệ như thầy Trương Văn Hiến. Thời này nền võ đạo đã được đề cao, hình thành nên làn sóng võ hiệp “cứu khốn phò nguy” nơi miền đất sông Côn. Những lớp học trò xuất sắc như 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ; Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết… đã tạo ra một thế hệ võ nhân với tài thao lược xuất chúng. Họ không những lĩnh hội những tuyệt kỹ võ thuật của thế hệ trước mà còn sáng tạo thêm nhiều chiêu thức mới, hệ phái mới với những bí kíp độc đáo, trong số đó có nhiều tuyệt kỹ võ học đến nay đã bị thất truyền.
Trong cuốn “Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thao” của Nguyễn Trung Như được lưu trữ ở chùa Long Phước (Tuy Phước-Bình Định ngày nay) đã đề cập đến những bí kíp võ công của 20 danh tướng thời Tây Sơn. Trong đó có những tuyệt kỹ mà ít người có thể luyện tập thành công như “Độc thần kiếm” của Nguyễn Nhạc, “Ô long đao” của Nguyễn Huệ, “Lôi long đao” của Võ Văn Dũng, “Lôi phong tùy hình kiếm” của Trần Quang Diệu, “Phong vân kiếm” của Bùi Thị Xuân, “Miên quyền” của Nguyễn Lữ… Bên cạnh đó, thời kỳ thịnh võ ở đất Tây Sơn, thế hệ võ nhân với võ công thượng thừa này đã sáng tạo nhiều chiêu thức mới độc đáo như “Hùng kê quyền” của Nguyễn Lữ (quan sát từ các thế đá gà); “Phi yến thảo pháp” của Nguyễn Huệ (quan sát từ đàn én lượn bay); “Song phượng kiếm” của Bùi Thị Xuân (lấy cảm hứng từ đôi chim đùa nhau)…
Từ thời nhà Tây Sơn trở đi, nơi vùng đất bên sông Côn đã hình thành những dòng võ nổi danh như dòng võ họ Trương ở An Thái mà Tổ sư là Trương Văn Hiến, người có công đào tạo Tây Sơn Tam kiệt và nhiều danh tướng Tây Sơn khác. Nổi tiếng không kém là dòng võ họ Nguyễn ở An Vinh mà người có công gầy dựng sau này là võ sư Nguyễn Ngạc (Hương mục Ngạc). Dòng võ này có liên quan đến một nữ võ nhân là Nguyễn Thị Vũ, bà Tổ cô của Hương mục Ngạc, người truyền thụ quyền cước cho nữ tướng Bùi Thị Xuân trước đây. Cũng phải kể đến dòng võ họ Hồ ở Thuận Truyền với sự nổi danh về đường roi của Hồ Ngạnh (Hồ Nhu). Dòng võ này cũng có gốc từ thời Tây Sơn nhưng đến đời Hồ Ngạnh mới nổi tiếng với nhiều môn sinh theo thụ giáo. Ngày nay người ta còn nhắc đến câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” là vậy. Ngoài ra, ở vùng An Thái còn có dòng võ họ Diệp gắn với tên tuổi võ sư Diệp Trường Phát-người sáng lập võ phái Tây Sơn An Thái; dòng võ họ Lâm, hình thành từ cuối thế kỷ XVIII gắn với tên tuổi võ sư Lâm Hữu Phong và võ phái Bình Sơn…
Được xây dựng trên nền tảng võ học uyên thâm, từ xưa hệ phái võ Tây Sơn đã hình thành nên tinh thần thượng võ trong lớp môn sinh để từ đó biết yêu chuộng lẽ phải, ghét cường quyền, chống áp bức, bất công... Với tinh thần ấy, ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, họ đã thu hút các bậc danh sĩ, võ tướng theo về đầu quân, được đông đảo nhân dân ủng hộ.
Ngày nay, về Tây Sơn, vùng đất hiền hòa bên dòng sông Côn thơ mộng, ngoài những di tích lịch sử của nhà Tây Sơn, chúng ta có thể đến thực địa các làng võ nổi tiếng vùng An Thái, An Vinh, Thuận Truyền, thăm võ đường của các bậc võ nhân nổi tiếng một thời để chiêm ngưỡng những thế võ cổ truyền Tây Sơn hiện vẫn còn được lưu truyền cho thế hệ môn sinh ngày nay.
BÙI QUANG VINH

Có thể bạn quan tâm

Tính sử thi trong tranh Xu Man

Tính sử thi trong tranh Xu Man

(GLO)- Họa sĩ Xu Man (1925-2007) được mệnh danh là “cánh chim đầu đàn của mỹ thuật Tây Nguyên”. Nét đặc sắc trong tranh Xu Man là tính sử thi. Đây vừa là đặc trưng nghệ thuật cũng vừa là nội hàm văn hóa ẩn trong tác phẩm của ông.

Xếp từng hạt gạo thành tranh

Xếp từng hạt gạo thành tranh

Cha mẹ làm nông, cả tuổi thơ của Trương Kim Ngân (sinh năm 1994) đã quen với việc gieo mạ, gặt lúa. Về sau, theo nghề họa sĩ - nghệ nhân, chị vẫn để bàn tay mình gắn bó với từng hạt gạo thân yêu thay vì chỉ có cọ, màu, giấy vẽ…

Khi sông gặp biển

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khi sông gặp biển

(GLO)- Giữa dòng chảy ký ức, bài thơ "Khi sông gọi biển" của tác giả Nguyễn Thanh Mừng gợi về hình bóng con sông xưa với lời hẹn thơ ngây, thể hiện nỗi niềm tiếc nuối trước những đổi thay. Sông vẫn đợi, chỉ người đã không còn như trước.

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

(GLO)- Suốt 50 năm qua, bà Kpă H’Mi (SN 1961, buôn Chư Jú, xã Ia Rsai, huyện Krông Pa) vẫn luôn say mê những giai điệu dân ca Jrai. Bà là niềm tự hào của buôn làng khi không chỉ lưu giữ mà còn truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ thêm yêu và gắn bó với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Mắt hạ cho nhau

Thơ Lenguyen: Mắt hạ cho nhau

(GLO)- "Mắt hạ cho nhau" của Lenguyen là khúc ngân dịu dàng của tuổi học trò, nơi bằng lăng tím, phượng đỏ và tiếng ve gọi về ký ức. Bài thơ chan chứa hoài niệm, tiếc nuối những rung động đầu đời chưa kịp nói thành lời.

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

(GLO)- Bài thơ "Di vật đời người" của Phạm Đức Long là khúc tưởng niệm thấm đẫm cảm xúc về những người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Họ ngã xuống giữa rừng xanh, để lại những di vật bình dị mà thiêng liêng, là biểu tượng bất tử của một thời tuổi trẻ quên mình vì Tổ quốc...

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...