Chuyện thời sự ở nông thôn: Bài 2-Nỗi buồn của vùng quê chị Dậu

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Trong chuồng lợn chết hết, ngoài vườn thì nhãn mất mùa, hai nguồn thu chính của người nông dân Tiên Lữ, Hưng Yên bị chặn lại hoàn toàn...
Những vườn nhãn chỉ có lá
Xe tôi đang bon bon trên con đường liên xã ở Hồng Nam, TP Hưng Yên bất thần một luồng thuốc sâu từ những vườn nhãn hai bên phụt thẳng vào mặt khiến mắt mũi cay xè, mồm miệng đắng ngắt.
Trong mấy năm gần đây chưa năm nào người dân Hưng Yên lại chứng kiến một vụ nhãn thảm hại như vụ này, vừa mất mùa nặng lại vừa sâu bệnh nhiều. Bọ xít, sâu đo thi nhau sinh sôi, nảy nở nên dù nhãn không có quả nhưng nông dân vẫn phải phun thuốc BVTV liên tục nếu không sẽ sun hết ngọn, tan hết lá.
Hồng Nam là vựa nhãn lồng nổi tiếng của tỉnh với diện tích khoảng 200ha, chủ yếu là giống Hương Chi, quả to, hạt nhỏ, vỏ mỏng, cùi dày, hương thơm, vị ngọt. Nông dân trong xã đời đời, kiếp kiếp thủy chung với cây nhãn, biến nó là nguồn sống chính của mình, ở đây có những cây nhãn cổ thụ hàng trăm năm tuổi quý hiếm đến mức được công nhận là cây bảo tồn quốc gia.
Năm 2018 sản lượng nhãn của xã đạt 2.940 tấn, doanh thu 44 tỉ đồng nhưng năm nay thì thất thu theo tình hình chung của cả tỉnh. Chị Vũ Thị Dậu có 6 sào nhãn, mọi năm thu 4 - 5 tấn, năm nay ước chỉ được 5 - 6 tạ, giảm hơn 80% bởi giai đoạn trỗ vào đúng lúc mưa rét nên không đậu quả cộng thêm nạn sâu bệnh dữ dội.
 
Chị Dậu bế cháu trong vườn nhãn không có quả.
Trở lại với vụ nhãn năm ngoái, tuy được mùa nhưng giá rẻ chưa từng thấy. Đầu vụ chị chỉ bán được vài tạ nhãn quà với giá 15.000 - 20.000 đồng/kg rồi hơn 4 tấn sau đó đành phải bán làm nhãn sấy long với giá chỉ 8.000 đồng/kg. Tổng thu được 40 triệu, không bằng một nửa so với các năm trước trong khi chi phí phân bón, thuốc sâu đã là hơn 20 triệu, công xá hai vợ chồng tự hì hụi làm, không tính vào.
Ngoài trồng nhãn, chị Dậu còn giữ chức Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp Hồng Nam nhưng từ hồi địa phương chuyển đổi hết từ lúa sang nhãn, cấy hái cũng không còn, đơn vị chỉ cung cấp được mỗi dịch vụ nước. Bộ máy HTX có 5 người, mọi năm được giao tiêu úng cho nhãn, mỗi tháng được cỡ 500.000 đồng/lao động nhưng 2 năm gần đây công việc đó được bàn giao về công ty khai thác công trình thủy lợi thành phố nên hoàn toàn tê liệt, chẳng có một đồng thu nhập nào.
Không thành viên, không nhiệm vụ, không trụ sở, không bàn ghế, đống máy bơm, bình phun thuốc sâu cũ cũng đã thanh lý bằng hết, HTX xã chẳng khác gì một cái xác khô, càng bám vào càng khổ nên đã mấy lần mọi người xin được xóa nó đi nhưng trên không cho. Họ bảo ở TP Hưng Yên có 12 phường xã vẫn còn HTX, chưa nơi nào được xóa cả. Có thể HTX là một trong những yếu tố liên quan đến việc xây dựng nông thôn mới nên dù đã “chết” cũng không được khai tử chăng?
Theo ước tính của chị Dậu sản lượng nhãn toàn xã năm nay mất khoảng trên dưới 50%, đã túng bấn từ vụ trước đến vụ này lại càng túng bấn, nhiều người ăn cỗ cưới đến cái phong bì 200.000 đồng cũng phải tất tả đi vay. Ngay bản thân gia đình chị, cuộc sống giờ chẳng biết có thể trông ngóng vào đâu vì tuổi của họ cũng đã ngoài 60, không có nghề gì khác ngoài trồng và chăm sóc nhãn.  
Họp họ cũng phải đi vay
Họ Nguyễn ở đội 9 xã Hồng Nam mới họp, làm 7 mâm cỗ, đĩa bát ngồn ngộn thịt cá mà mặt nhiều người vẫn không thể tươi như mọi bận. Ông trưởng họ Nguyễn Quốc Ân thấy vậy phải động viên rằng: “Năm ngoái được mùa mất giá nhãn nhưng không vì thế mà họ ta bỏ mặc cho cây hỏng. Phải vay mượn cho cây nó ăn để còn hi vọng vào năm sau chứ!”.
 
Nỗi buồn của ông trưởng họ Nguyễn Quốc Ân.
35 đầu đinh họp họ lần này, mỗi suất đóng góp 200.000 đồng nhưng trên 10 người phải đi vay tiền, kể cả ông trưởng họ. Hai năm liên tiếp nhãn thất thu, 2018 được mùa thì mất giá còn 2019 mất hẳn mùa phần bởi thời tiết thất thường, phần bởi con người chán nản lơ là chăm sóc nên kinh tế của cả họ đi xuống thấy rõ.
Nói đâu xa, như vụ nhãn năm ngoái, sau khi trừ tất chi phí, gia đình ông Ân chỉ còn được 7 triệu, chia đều cho 2 vợ chồng già, mỗi tháng mỗi người chỉ được xấp xỉ 300.000 đồng. Họ phải vay mượn thêm 25 triệu để cầm cự đến vụ này thì cây lại chẳng đậu quả. Dưới cái nóng hơn 40oC ông vẫn lao ra ngoài mà cào đám đất phù sa mới đổ xuống vườn. Cứ 2 - 3 năm một lần, các nhà vườn ở đây lại phải mua đất phù sa sông Hồng về cho nhãn “ăn” như vậy để cây chóng phục hồi sức khỏe. Mỗi xe đất giá 400.000 đồng cộng thêm 200.000 đồng vận chuyển nữa nên đổ đủ cho 7 sào nhãn ông Ân mất đúng 20 triệu.
 
Cho nhãn "ăn" phù sa.
Nhãn mất mùa vẫn phải cho ăn cũng như người mất nhãn vẫn phải gắng gượng sống. Ông Ân trầm ngâm: “Chi tiêu cho một gia đình nông thôn giờ đây tối thiểu cũng phải 3 - 4 triệu/tháng mới tạm đủ cho con cái học hành, sinh hoạt phí, chưa kể dịp đầu năm cưới hỏi nhiều, giỗ chạp lắm có tháng vọt lên tới 5 - 6 triệu.
Chưa năm nào người trồng nhãn khó như năm nay, nhiều gia đình phải đi ăn vay rồi. Đã thế, khoảng 3 năm gần đây chẳng hiểu sao nhãn Thái Lan lại tràn về nhiều đến vậy? Vụ đầu tiên, 2017 giá bán của nhãn lồng Hưng Yên 25.000 đồng/kg thì nhãn Thái bán chỉ có 15.000 đồng/kg.
Vụ thứ hai, 2018 nhãn mình bán 8.000 - 10.000 đồng/kg thì nhãn Thái bán chỉ có 5.000 đồng/kg. Nếu nhà nước không có chính sách gì để ngăn nhãn Thái Lan nhập khẩu về Việt Nam tràn lan như thế này thì chắc chúng tôi chỉ trụ được 1 - 2 vụ nữa là phải phá vườn”.  
Tay, chân lở loét vì bóc long nhãn Thái
Không chỉ bán nhãn quà dạng ăn tươi mà nhãn Thái còn có cả hàng làm long, cạnh tranh kịch liệt với long nhãn nội về giá. Nếu nhãn ta có theo mùa thì hầu như nhãn Thái có quanh năm.
Các ông trùm ở Hưng Yên đánh từng đoàn xe container chứa đầy thứ nhãn đã cắt rời từng quả rồi sang tải cho các lò chuyên xoáy nhãn làm long. Lò sấy của chị Vũ Thị Thơm ở xã Hồng Nam (TP Hưng Yên) mỗi khi đỏ lửa đều thu hút 20 - 30 lao động trong vùng đến làm thuê, rất nhộn nhịp. Không hiểu loại nhãn này có sử dụng chất bảo quản hay không mà khi mới bỏ trong thùng ra chúng bốc mùi hăng hắc, khó chịu đến mức ruồi nhặng ít khi đậu xuống còn người làm thuê dễ bị nhức đầu, buốt óc.
Chị Ngô Thị Hoa ở xã Hồng Nam vụ trước có nhận ít nhãn Thái về nhà tranh thủ bóc. Khi đem ra rửa, nó chảy ra thứ nước hồng hồng, bám chặt vào da tay chị khiến cho loét kẽ ngón, chữa đủ loại thuốc trong mấy tháng liền mới khỏi nên sợ quá không dám làm nữa.
 
Chị Ngô Thị Hoa chỉ bàn tay từng bị loét kẽ vì bóc long nhãn Thái.
 
Chỉ một tí nước khi xoáy nhãn làm long nhỏ xuống chân cũng có thể khiến cho da phồng rộp lên như phải bỏng.
Ngay cả đống vỏ nhãn sau khi bóc xong chất trong góc vườn cũng rất lâu bị thối chứ không như nhãn ta. Mỗi kg nhãn sau khi bóc được trả công 4.000 đồng. Một lao động khỏe mạnh và chăm chỉ mỗi ngày có thể bóc được 30kg, thu nhập được 120.000 đồng.
Gia đình anh Vũ Văn Quảng ở đội 2 xã Dị Chế (Tiên Lữ, Hưng Yên) có hai nguồn thu chính là nuôi lợn và sấy long nhãn.
Năm nay thì cả hai hướng đi ấy đều bị bẻ gãy hoàn toàn. Ngót 70 con lợn của anh, nửa may mắn bán được trước lúc dịch tràn đến, nửa còn lại đành phải đem chôn, chuồng trại bỏ trống, không dám nuôi tiếp.
Mọi năm anh đấu thầu mấy vườn nhãn trong vùng được cỡ 40 - 50 tấn quả, sản xuất ra khoảng 4 - 5 tấn long, vụ này thì chỉ thu được mỗi lá.
Ngoài làm nhãn ta, trước đây hết thời vụ anh còn đánh cả nhãn Thái. Khác với long nhãn ta khá khô, có màu vàng óng như mật ong thì long nhãn Thái ướt hơn, màu đen sẫm.
Cách đây chừng 10 ngày, lò sấy nhãn Thái nhà anh phải tắt lửa bởi mỗi kg trước bán 180.000 - 200.000 đồng giờ chỉ còn 130.000 đồng, mức giá cận vốn mà thương lái Trung Quốc vẫn còn chê ỏng, chê eo.
 
Cận cảnh bóc long nhãn
Không còn lợn, không còn long, mọi nguồn sống của gia đình anh chị bị chặt đứt hết khiến cho họ cứ thon thót giật mình mỗi khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại của thằng con đang học đại học gọi về xin tiền.

Nhưng trong chuồng lợn đã chết hết, ngoài vườn nhãn đã mất mùa, không đi bóc long Thái thuê thì còn biết làm gì? Chỉ có điều, rút kinh nghiệm, trước khi bóc họ phải ngâm rửa cho thật kỹ, lúc xoáy cùi phải đeo khẩu trang cho đỡ mùi, đeo găng tay cho đỡ ăn da. Cẩn thận là thế mà sơ sảy tí nước nhỏ xuống chân cũng có thể khiến cho da phồng rộp lên như phải bỏng

Dương Đình Tường (Nông nghiệp Việt Nam)

Có thể bạn quan tâm

Sống ở TP.HCM: Người hạnh phúc vẽ nên sắc hồng cho bệnh nhân ung thư

Sống ở TP.HCM: Người hạnh phúc vẽ nên sắc hồng cho bệnh nhân ung thư

Hiến tóc cho bệnh nhân ung thư là một trong những hoạt động ý nghĩa nằm trong khuôn khổ chương trình 'Ngày hội Nón hồng' do Mạng lưới Ung thư vú Việt Nam (BCNV) tổ chức. Những mái tóc được gửi đến các bệnh nhân chính là biểu tượng của sự sẻ chia, tiếp thêm sức mạnh để họ tiếp tục chiến đấu.

Khơi dậy ý chí, khát vọng thoát nghèo - Kỳ 1: Những “đốm lửa hồng” nêu gương trong việc khó

Khơi dậy ý chí, khát vọng thoát nghèo - Kỳ 1: Những “đốm lửa hồng” nêu gương trong việc khó

Những năm qua, nhiều chính sách phát triển kinh tế-xã hội, an sinh xã hội, ba chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới (NTM), giảm nghèo bền vững, những chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được triển khai sâu rộng.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Tượng đài “Chiến sĩ bất khuất Vĩnh Trinh” ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam là một trong các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Phan. Ảnh: Tư liệu

Ký ức vỡ

Những gì không lặp lại sẽ dễ lãng quên. Người thân cũng thế, ký ức về một ai đó, sau thời gian dài không gặp sẽ bị im lìm, đóng băng. Một phần nào trong ký ức tôi tưởng chừng như thế, đã im ngủ hơn 14 năm qua tính từ ngày anh từ bỏ cõi trần gian phiền muộn này.

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 2: “Nữ hoàng” sắc hương giữa môi trường sinh thái

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 2: “Nữ hoàng” sắc hương giữa môi trường sinh thái

Nông gia Nguyễn Đáp sinh ra, lớn lên và tạo lập cơ nghiệp trên những thửa rau, hoa bậc thang của thành phố cao nguyên Đà Lạt, hiện đang chạm ngưỡng tuổi lục thập vẫn dốc tâm sức và tiền vốn để bổ sung “công năng” trên từng diện tích đất nông nghiệp của mình.

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 1: Hoa trời Âu “phát sáng” góc trời Ðà Lạt

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 1: Hoa trời Âu “phát sáng” góc trời Ðà Lạt

Trên nền tảng dẫn đầu cả nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, vùng đất Nam Tây Nguyên Lâm Đồng đã và đang mở rộng những miền quê tập trung tạo ra những mặt hàng có giá trị khác biệt, trong đó nổi trội với sản phẩm du lịch cộng đồng gắn xây dựng NTM, phát triển làng nghề ở địa phương.

Đời chìm nước nổi…

Đời chìm nước nổi…

Thời điểm này, khu vực biên giới Tây Nam đang đỉnh lũ. Mùa nước nổi năm nay lượng nước sông Mê Kông đổ về Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn trung bình nhiều năm trước. Mùa nước nổi là lúc người dân vùng biên thức thâu đêm giăng lưới, thả câu tận hưởng lộc trời.