Chuyện Đà Lạt không phải ai cũng biết-Kỳ 7: Buổi đầu trồng rau

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Tính từ năm 1893, thời điểm bác sĩ Alexandre John Emile Yersin tìm ra Đà Lạt, mảnh đất này đã có hơn 120 năm nhọc nhằn để trở thành vương quốc nông sản rau và hoa.

Hoa Hà Nội trên đất Đà Lạt

Lịch sử xứ hoa đã ghi nhận những di dân đến Đà Lạt lập làng Hà Đông (P.8, Đà Lạt) từ sáu làng hoa nổi tiếng quanh Hồ Tây (Hà Nội) là những người đầu tiên hình thành nghề trồng rau hoa sau này tại Đà Lạt.

 
Nông dân làng hoa Hà Đông (Đà Lạt) ngày nay.
Nông dân làng hoa Hà Đông (Đà Lạt) ngày nay.

Lúc sinh thời, ông Ngô Văn Ngôn, một trong những người đầu tiên rời Hà Nội vào Đà Lạt, đã kể chúng tôi nghe câu chuyện người xưa đã trồng hoa trong giá tuyết và bốn bề tiếng thú dữ gầm gừ.

Ông Ngôn dắt chúng tôi vào nhà truyền thống làng hoa Hà Đông, kể về một ông quan triều Nguyễn cùng ông quản đạo Đà Lạt đưa dân Hà Đông vào Đà Lạt lập nghiệp. Bài vị của ông này được thờ trân trọng ở ấp Hà Đông.

Đó là tổng đốc Hà Đông kiêm chủ tịch Ủy ban Tương tế xã hội trung ương Bắc Kỳ - Hoàng Trọng Phu.

Các cứ liệu tại làng hoa Hà Đông ghi nhận mục đích của việc thành lập là giúp thành phố, đặc biệt là quân đội Pháp, có rau tươi để ăn, giúp cho những người biết nghề trồng rau có dịp phát triển khả năng để nâng cao mức sống của họ.

Ngoài ra, một ý khác của ông Hoàng Trọng Phu là giải quyết một phần cư dân ngày càng đông ở tỉnh Hà Đông.

Ông Trần Văn Lý là người đầu tiên đảm nhận chức danh quản đạo Đà Lạt, nhậm chức năm 1936. Nhận thấy đây là một vùng đất có khí hậu mát mẻ, ôn hòa lại là vùng đất còn hoang sơ rất thuận tiện cho việc trồng rau hoa, ông Trần Văn Lý đã đề nghị ông Hoàng Trọng Phu đưa dân vào lập ấp ở Đà Lạt.

Ông Phu nhận lời và giao cho ông Lê Văn Định đang giữ chức thương tá canh nông tỉnh Hà Đông xây dựng kế hoạch và chuẩn bị thực hiện việc di dân.

 

Những người dân làng rau Nghệ Tĩnh, làng rau đầu tiên của Đà Lạt - Ảnh tư liệu
Những người dân làng rau Nghệ Tĩnh, làng rau đầu tiên của Đà Lạt - Ảnh tư liệu

Ngày 29-5-1938, 35 người gốc Hà Đông sống ở các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Tây Tựu, Quảng Bá, Xuân Tảo, Vạn Phúc lên tàu hỏa vào Đà Lạt. Họ là những thanh niên trai tráng, khỏe mạnh có kinh nghiệm trồng rau hoa theo phương pháp châu Âu ở quê nhà.

Theo lời kể của ông Ngô Văn Ngôn, quá trình tuyển lựa người vào Đà Lạt kéo dài gần một năm. Nhà cầm quyền không chỉ coi tay nghề người được tuyển mà còn tra kỹ nhân dạng, sức khỏe nhằm hạn chế thấp nhất những bất trắc cho họ khi đến Đà Lạt, một xứ lạnh hoang vu.

Trên chuyến tàu đầu tiên đến Đà Lạt có nguyên một toa giống các loại rau có nguồn gốc châu Âu do người Pháp mang đến Hà Nội như khoai tây, xúp lơ, tỏi tây, đậu Hà Lan, dâu tây, bắp cải..., và các loại hoa như hồng, cúc, trà my, lài, sói...

Những nông dân đến từ miền Bắc sớm thích nghi với môi trường khí hậu mới, ra sức lao động và gầy dựng được làng rau hoa của Hà Đông trên cao nguyên Lang Biang.

Thương điếm nông sản và làng rau xứ Nghệ

 

Vua Bảo Đại gắn huy chương cho 16 nông dân trồng hoa Hà Đông ở Đà Lạt năm 1945 - Ảnh tư liệu
Vua Bảo Đại gắn huy chương cho 16 nông dân trồng hoa Hà Đông ở Đà Lạt năm 1945 - Ảnh tư liệu

Năm 1940, ấp Nghệ Tĩnh ra đời. Ban đầu ấp Nghệ Tĩnh có khoảng 36ha đất cấp cho 70 hộ. Thật ra, ngay từ những năm 1927, người có công đưa bà con Nghệ An - Hà Tĩnh lên Đà Lạt lập nghiệp là ông Nguyễn Thái Hiến.

Ông tích cực nhập nhiều giống rau hoa của Pháp về sản xuất và tổ chức kinh doanh hiệu quả.

Ông Nguyễn Thái Hiến, còn có tên là Doãn, thường gọi là Xu Hiến (Xu là chức danh tiếng Việt của chữ Surveillant). Ông tốt nghiệp Trường Canh nông Tuyên Quang - nơi đào tạo những nhà nông học đầu tiên của nước ta.

Năm 1924, ông được bổ dụng làm kiểm lâm ở Phan Thiết, sau chuyển lên phụ trách việc trồng hoa cây cảnh cho thành phố Đà Lạt (1927).

Ông Hiến có công lao hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực. Trước hết, ông đã tích cực đưa nhiều giống rau hoa từ nước ngoài vào Đà Lạt để sản xuất và kinh doanh.

Từ các giống rau hoa Pháp đưa sang Việt Nam trồng thí nghiệm và sử dụng cho nhu cầu của quan chức Pháp ở Đà Lạt, ông đã đưa chúng về cho bà con người Việt trồng, trong đó có bà con của ấp Nghệ Tĩnh.

Người Đà Lạt bắt đầu biết đến tên gọi của nhiều loài hoa mới nhập từ nước ngoài về, biết đến các các loại xà lách, cà chua, hành poarô (poireau), cần tây, ớt tây, măng tây...; biết đến nhiều loại cây ăn trái như dâu tây, bơ, táo tây, cây atisô... đều do công lao của ông Hiến.

Khi làng hoa Hà Đông và làng rau Nghệ Tĩnh phát triển, lượng nông sản vượt mức tiêu thụ tại địa phương, ông Nguyễn Thái Hiến đã nghĩ ngay đến việc thành lập một thương điếm để tiêu thụ nông sản phẩm cho bà con nông dân, mở rộng giao lưu buôn bán với các tỉnh bạn và vươn ra các nước láng giềng.

Ông kết hợp với ông Tôn Gia Huồng - một công chức làm việc ở Phan Thiết, từng học trường Pratique (Trường thực hành) Huế và bạn bè góp vốn mở Nouveautés Hanoi - một tiệm bách hóa lớn thời bấy giờ ở Đà Lạt (nay là nhà sách Phương Nam, Đà Lạt).

Tiệm đã hoạt động rất mạnh và thành công, bằng cách hỗ trợ bà con ứng trước gạo, thực phẩm, phân bón, thuốc trừ sâu..., đến mùa bà con trả bằng sản phẩm. Tiệm còn mở rộng hoạt động về vận chuyển sản phẩm đến địa phương khác để tiêu thụ...

Tên cửa hiệu Nouveautés Hanoi có nghĩa là những mặt hàng mới của Hà Nội.

Thuở ban đầu ấp Nghệ Tĩnh chỉ có 36ha nằm dưới một thung lũng trọc, sình lầy và nhiều cỏ dại, cây rừng rất ít và được phân chia thành từng lô bằng nhau. Người dân ở ấp chủ yếu trồng rau.

Muốn trở thành cư dân của ấp Nghệ Tĩnh, yêu cầu phải sống tại Đà Lạt hơn một năm và chưa đứng tên một lô đất nào.

Làng, ấp có tự bao giờ ở Đà Lạt?

Ngoài các buôn làng nằm rải rác dưới chân núi Lang Biang, Dankia, Suối Vàng và hai bên con suối (về sau ngăn đập thành hồ Xuân Hương) là bà con dân tộc bản địa..., Đà Lạt đã hình thành thêm làng, thêm ấp khi người Kinh từ miền xuôi lên.

Dấu tích việc "lập ấp, đẻ làng" ở Đà Lạt là ngôi đình Đa Lạc, xây dựng năm 1920. "Đa Lạc đình" thuộc làng Đa Lạc nằm ở hữu ngạn suối Cam Ly. Làng Đa Lạc có nhiều dốc, trong đó một con dốc gọi là dốc Nhà Làng (nay là đường Nguyễn Biểu) dẫn đến Nhà làng - nơi hội họp của nhân dân trong làng.

Đa số cư dân Đa Lạc là người miền Trung, sống bằng nghề buôn bán, xây dựng nhà cửa, cưa xẻ gỗ, trồng rau, sản xuất gạch, làm công trong các công sở, nhà hàng, khách sạn của người Pháp.

Ngọc Trác-Mai Vinh/tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Đâu rồi tranh Tết làng Sình?

Đâu rồi tranh Tết làng Sình?

Nếu Kinh Bắc nổi danh với tranh dân gian Đông Hồ và Thăng Long - Hà Nội vang tiếng với tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng (Hoài Đức - Hà Nội) thì miền Trung gió Lào cát trắng lừng danh với tranh dân gian làng Sình.

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Suốt thời gian dài, tệ nạn nghi kỵ “cầm đồ thuốc độc” ở miền núi Quảng Ngãi trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng, gây hoang mang, chia rẽ mối đoàn kết cộng đồng, nhiều người bị nghi ngờ có “đồ độc” phải bỏ làng vào rừng hoặc tự tử, thậm chí bị đánh đập dã man cho đến chết.