Trong Đại Việt sử ký toàn thư (NXB KHXH, Hà Nội năm 1985) chỉ ghi ngắn gọn 16 dòng về trận thủy chiến Bạch Đằng 1288. Nhưng trong đời sống dân gian và dã sử, đó luôn là cả một kho tàng chuyện cổ sống động về vai trò của những người dân bình thường vùng sông nước Quảng Ninh đã góp phần vào chiến thắng.
Cọc gỗ trong chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 được trưng bày tại bảo tàng. |
Nhân hội thảo khoa học cấp quốc gia, tiến tới kỷ niệm 725 năm Chiến thắng Bạch Đằng, Báo Bình Định xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà nghiên cứu Lê Đồng Sơn dưới góc độ folklore (văn hóa dân gian) (bài đăng trên Báo Lao Động online).
Truyền thuyết Vua Bà
Trong nhân dân Yên Hưng và Thủy Nguyên xưa, từ rất lâu đã lưu truyền hai truyền thuyết nói về Vua Bà:
Truyền thuyết 1 gắn với di tích miếu Vua Bà. Truyền thuyết này lưu truyền trong dân gian, kể về chuyện bà hàng nước trên bến đò Rừng đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch con nước triều, địa thế lòng sông và mách bảo Trại Yên Hưng nhiều cỏ cây dễ cháy, hãy làm bè mảng mà thiêu đốt thuyền giặc.
Truyền thuyết 2 được viết bằng chữ Hán trong bản thần tích ở di tích đình Đền Công có tựa đề “Trần Hưng Đạo chém Phạm Nhan”. Thần tích này kể về bà hàng cơm trên bến sông Bạch Đằng đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo những động tĩnh của thuyền giặc Nguyên Mông và mách bảo Trần Hưng Đạo cách chém đầu Phạm Nhan (kẻ nối giáo cho giặc).
Thần tích “Tứ vị Thượng đẳng thần”
Bản thần tích bằng chữ Hán ở di tích đình Đền Công kể 4 vị thần linh là: Cao Sơn Quý Minh Đại vương, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng tướng quân và Bạch Thạch tướng quân đã mộng báo cho Trần Hưng Đạo chọn địa điểm cây giêng (cây cu linh) ở Điền Công và bến đò Rừng ở Quảng Yên làm nơi phát hỏa, làm hiệu lệnh cho quân dân nhà Trần đồng loạt tấn công đạo binh thuyền của quân giặc Nguyên Mông.
Truyền thuyết Trần Hưng Đạo búi tóc ở Trung Bản
Truyền thuyết này gắn với di tích đình Trung Bản xã Liên Hòa thờ một bức tượng Trần Hưng Đạo xổ tóc dài tới ngang thắt lưng. Tương truyền, trong chiến trận Bạch Đằng 1288, ông chỉ huy quân sĩ tiêu diệt tàn quân Nguyên Mông trên các đượng đất cao triền phía sau trận địa cọc. Trong khi say sưa đánh giặc, tóc Ngài bị xổ ra, Ngài bèn dừng lại, chống kiếm búi lại tóc. Đây là bức tượng độc nhất vô song về bậc anh hùng.
Tục thờ Phạm Nhan ở làng Hưng Học
Xã Hưng Học - nay là thôn Hưng Học, phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên - có miếu thờ Phạm Nhan. Tương truyền: Sau khi bị chém, đầu Phạm Nhan được thả xuống sông trôi về bến sông làng Hưng Học. Một năm, dân làng bị dịch bệnh hoành hành, các cụ già nằm mộng, thấy thần hiện về bảo dân làng lập miếu thờ sẽ khỏi bệnh.
Dân làng bèn lập miếu thờ. Trong miếu chỉ thờ một chiếc mũ (làm đầu thần), lễ vật cúng luôn có bát nước vông thay máu bà đẻ. Từ đó dịch bệnh biến mất. Phụ nữ sinh nở ở các xã đảo Hà Nam đến giờ vẫn đều kiêng không dám đi qua miếu thờ Phạm Nhan.
Truyền thuyết, thần phả về dân địa phương tham gia chiến trận
Hai bên bờ hữu ngạn, tả ngạn sông Bạch Đằng có nhiều đền thờ, từ đường dòng họ thờ những vị thần là những người dân địa phương cùng với quân tướng triều đình tham gia chiến trận Bạch Đằng, như miếu Vua Bà (Quảng Yên); đền thờ Đồng giang hầu Vũ Nạp ở Minh Tân (Thủy Nguyên); miếu thờ Trần Hộ, Trần Độ, Mai Đình Nghiễm ở Phả Lễ (Thủy Nguyên); nơi thờ ông Vũ Trí Thắng - người Hàng Kênh (An Dương), Hoa Duy Thành người Vĩnh Bảo, Vũ Hải được thờ ở xã Kiến Quốc (An Thụy - Hải Phòng), Hoàng Thản xã Hồng Thái (An Hải – Hải Phòng) v.v... tương truyền đây là nhũng người dân địa phương tham gia chiến trận Bạch Đằng 1288 và lập nhiều công lớn.
Chính sử đều ghi chiến thuật vườn không nhà trống của bộ chỉ huy tối cao vương triều Trần trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông cho thấy sự đóng góp lớn của nhân dân cả nước.
Sông Bạch Đằng hơn 700 năm trước rất rộng lớn (đảo Hà Nam, năm 1434 mới được khai khẩn, hình thành). Lợi dụng hai dải đá ngầm là gềnh Cốc và gềnh sông Chanh, cắm đan xen các bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối, bãi cọc Đồng Má Ngựa v.v... tạo thành một phòng tuyến chắn ngang họng sông Bạch Đằng, không cho quân giặc rút ra biển về nước, chắc chắn có vai trò “mách bảo” của người dân địa phương.
Ngày 22.3.1288, Ô Mã Nhi đã cho quân vào trại An Hưng càn quét, cướp 4 vạn thạch lương. Như vậy việc chuẩn bị chiến trường, vào rừng chặt gỗ và vận chuyển hàng ngàn cây gỗ cắm các bãi cọc chỉ trong khoảng 15 ngày (từ 22.3 đến trước 9.4.1288), chắc chắn phải có sự tham gia rất tích cực của người dân vùng Quảng Yên, Uông Bí, Thủy Nguyên với quân lính triều đình trong việc xây dựng trận địa cọc. Một chi tiết quý nữa là: Trong Bảo tàng Bạch Đằng Quảng Yên hiện đang trưng bày một cây cọc (lấy từ bãi cọc Đồng Vạn Muối), cây cọc này là một cấu kiện của một ngôi nhà (giống cấu kiện của một nhà sàn), cho thấy người dân nơi đây đã dỡ nhà xây dựng trận địa cọc. Một hiện thực luôn lặp lại trong nhiều cuộc kháng chiến chống xâm lăng của dân tộc sau này.
Chiến trận Bạch Đằng diễn ra trên phạm vi rộng lớn. Do vậy lệnh chỉ huy bằng khói lửa là tối ưu nhất cho trận thủy chiến trận Bạch Đằng 1288. Thần tích “Tứ vị Thượng đẳng thần” ở đình Đền Công, xã Điền Công thành phố Uông Bí càng liên hệ tới nhiều khả năng Trần Hưng Đạo đã dùng lửa và khói làm hiệu lệnh cho quân dân nhất loạt tiến công đoàn thuyền chiến của giặc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm miếu Vua Bà, sau khi nghe Truyền thuyết Vua Bà, ông nói: “Hưng Đạo Vương đã chắt chiu ý kiến của mọi người dân bình thường để làm nên nghiệp lớn”.
Cùng tư liệu chính sử, các tục thờ, truyền thuyết, thần tích, thần phả, ca dao, tục ngữ, văn bia, câu đối... sẽ góp phần giúp các thế hệ mai sau nhận diện đầy đủ “Chiến thắng Bạch Đằng 1288” trong sự nghiệp chống ngoại xâm, giữ gìn toàn vẹn tổ quốc, từ biên giới tới vùng trời, biển đảo quê hương.
. Theo Lao Động online