Bến đò xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Gió mùa thu man mác mang hơi nước từ con sông Cái tràn về làm chị Hoàng thấy dễ chịu. Nhìn về bờ bắc con sông, nơi có bãi bông lau trắng xóa như những dải tơ lụa mịn màng của trời đất ban tặng cho dòng sông này đang dập dờn, phất phơ theo làn gió chiều, chị Hoàng bồi hồi nhớ về kỷ niệm xưa, kỷ niệm của một thời con gái vẫn in đậm trong tâm khảm chị.
 

Với vóc người thon thả, cao ráo, làn da trắng mịn, khuôn mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu, mỗi khi chị nở nụ cười thì ai cũng phải xiêu lòng. Năm chị Hoàng mới mười bảy, mười tám tuổi được cha cho đi theo đò, cứ mỗi chuyến đò ông Quang thường chỉ cho chị cách chèo, cách chống sào, bẻ lái để con thuyền lướt nhẹ trên mặt nước tránh được dòng xoáy, va đập vào đá ngầm dẫn đến lật thuyền gây nguy hiểm tính mạng cho người đi đò. Ngày qua ngày, chị Hoàng đã thành thạo từng động tác chèo đò mà cha đã dạy. Có lúc cha bận việc nhà thì chị Hoàng thay cha chèo đò đưa khách qua sông. Thấy con gái đã thành thạo với sông nước, biết điều khiển con thuyền, ông Quang đã giao hẳn việc chèo đò cho chị Hoàng từ ngày đó, cho đến bây giờ chị đã bước qua tuổi sáu mươi. Thấy chị cực khổ, các con khuyên chị hãy nghỉ chèo đò, ở nhà phụ giúp chúng làm la ghim, việc gì phải nai lưng chèo đò mà thu nhập chẳng đáng là bao. Cực nhất mỗi khi mùa mưa bão về thì không biết bao nhiêu hiểm nguy rình rập đối với chị. Bỏ ngoài tai mọi lời yêu cầu của con, chị vẫn ngày đêm miệt mài với công việc chèo đò, bất kể ngày nắng, ngày mưa hay bão lũ, chị Hoàng đều có mặt trên bến sông này.
 

 


Sáng nay, khi bình minh tỏa ánh sáng màu cam lẫn màu đỏ hồng từ từ nhô dần lên ở phía chân trời, trải rộng trên mặt sông là lúc chị Hoàng vội vã một tay xách cặp lồng cơm, chai nước sôi để nguội, một tay cầm mái chèo hăm hở ra bến đò. Chị Hoàng có mặt trên bến đò rất sớm, bởi khách của chị đủ dạng; có người đi công tác, có người đi dạy học và hàng trăm học sinh phổ thông trung học đến trường. Ngoài ra còn có các bà, các chị đi chợ bán rau, bán gà vịt và các loại hoa quả, nông sản từ hai bờ nam bắc qua lại, sự giao thương diễn ra hằng ngày làm bến đò luôn nhộn nhịp. Chưa kể vào dịp lễ, Tết, số lượng khách vãng lai đi chùa Tàu ngược xuôi tấp nập làm chị mệt nhoài. Nhiều người muốn đi đò của chị vì đường xuống bến đò không quanh co, dễ đi nên ai cũng thích. Còn bến đò của ông Tình chỉ cách đò chị chừng 300 mét thì ít khách. Có lần chị Hoàng khuyên bà con nên giãn cách đi bớt qua đò của ông Tình, lúc đầu họ còn nghe về sau họ vẫn quay lại đi đò của chị. Lắm lúc làm chị rất áy náy, khó nghĩ. Đã có lần ông Tình nghĩ chị mồi chài, tranh giành khách của ông, nên đã có lời qua tiếng lại không hay, nhưng được chị giãi bày cặn kẽ, ông Tình dần dà cũng hiểu chuyện.
 
Chị Hoàng tính tình hiền lành, nết na, chịu thương, chịu khó ấy đã làm xiêu lòng thầy Dũng một chàng trai xứ Nghệ được tăng cường vào miền Trung lo phát triển sự nghiệp giáo dục sau ngày giải phóng miền Nam. Thầy Dũng phụ trách công tác xóa nạn mù chữ cho con em hai xã bờ nam và bờ bắc con sông Cái, nên thầy qua lại bến đò này có ngày đôi ba lần, số tiền tiêu tốn của mỗi chuyến đò không ít. Thấu hiểu công việc của thầy Dũng một chàng trai xứ Nghệ trẻ trung, điềm đạm, chất phác một mình bươn chải ngày đêm dồn tâm sức cho sự nghiệp “trồng người”, giúp đỡ bà con làng quê nghèo ven sông nên chị Hoàng miễn phí tiền đi đò cho thầy Dũng. Dù vậy, thầy Dũng vẫn không chấp nhận. Có lần chị Hoàng không nhận tiền đi đò, thầy Dũng liền bơi lội qua sông một cách thản nhiên. Nhìn cảnh tượng ấy chị xót xa đến nao lòng. Sau lần đó chị Hoàng miễn cưỡng nhận tiền đò của thầy.
 
Chuyến đò cuối cùng của chị Hoàng bao giờ hoàng hôn cũng sắp lặn, nhìn mặt sông lăn tăn gợn sóng nhuộm màu vàng lấp lánh ánh bạc, xa xa từng đàn cò trắng bay lượn lờ trên dãy núi xanh thẳm tìm đường về tổ, chị Hoàng nóng lòng chống sào đứng đợi. Chị đợi thầy Dũng, người khách đi chuyến đò cuối cùng của chị. Chị biết thầy Dũng kết thúc lớp học bao giờ cũng muộn, học trò của thầy đủ mọi lứa tuổi; các cháu từ 8 tuổi đến 18 tuổi, có người đã 25, 30 tuổi. Dạy cho họ hiểu, tập cho họ viết từng con chữ là điều vô cùng khó khăn, đòi hỏi người thầy phải kiên trì, nhẫn nại, có tình yêu thương vô bờ bến đối với học trò của mình thì mới mong có ngày đơm hoa, kết trái. Thầy Dũng thấu hiểu những năm tháng chiến tranh tàn khốc, chẳng ai được học hành, giờ con chữ đối với họ là vô cùng cần thiết. Bởi nó sẽ làm thay đổi cuộc đời của họ trong tương lai. Hiểu được nỗi khao khát, mơ ước của học trò, thầy Dũng ngày đêm không quản ngại đường xa, cách trở sông nước, lo chuyên tâm vào việc dạy học và mong sao một ngày không xa chính những con người này sẽ góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
 
Những chuyến đò qua sông đã làm thầy Dũng thương trộm, nhớ thầm người con gái xứ Quảng. Còn chị Hoàng từ trong sâu thẳm của lòng mình chị đã yêu anh, một người tính tình cương trực, ngay thẳng, giàu lòng nhân ái, một chàng trai từ miền đất xa xôi sẵn lòng mang con chữ đến vùng quê nghèo của chị.
 
Chị Hoàng mừng vui khi bóng anh Dũng xuất hiện bên bờ bắc, anh vẫy tay, gọi đò bằng câu thơ dí dỏm làm chị Hoàng tràn ngập niềm vui:  “Đò ơi! Ơi đò! Cho khách qua sông, nếu chậm chút nữa thì khách vượt sông ấy đò!”. Chất giọng Nghệ An, pha lẫn sự trìu mến của anh làm chị Hoàng trào dâng niềm yêu thương mãnh liệt, chị vội vã đưa nhanh mái chèo, con thuyền rẽ sóng lao nhanh qua bờ bắc. Anh Dũng kéo thuyền vào sát bờ rồi nhẹ nhàng bước lên với câu nói ý nhị: Cảm ơn mình nhá! Chị Hoàng khẽ gật đầu và nở nụ cười hiền hậu.
 
Ba năm yêu nhau, họ đã chính thức nên duyên vợ chồng. Hôm tổ chức lễ cưới thật đơn giản, chỉ có bố mẹ anh Dũng và ba đứa em, cùng anh em cơ quan phòng giáo dục huyện nơi anh công tác. Tiệc đám cưới chỉ trà nước, bánh kẹo và những lời chúc phúc của gia đình, bà con lối xóm, bạn bè đồng nghiệp.
 
Sau khi lập gia đình, anh Dũng về nhận công tác ở huyện miền núi xa nhà chừng sáu chục cây số, công việc trường lớp cuốn hút anh, làm anh chẳng có thời giờ lo nghĩ đến công việc gia đình. Mọi chuyện lo cho con cái ăn học, ốm đau một mình chị Hoàng quán xuyến. Thương vợ, nhớ con, nhưng có khi cả tháng anh mới về thăm nhà một lần. Rồi chuyện chẳng may ập đến, hôm ấy ngày thứ bảy anh chuẩn bị về nghỉ phép năm thì trời đổ mưa như trút nước, cơn mưa mùa đông xối xả dai dẳng, làm cho các con suối sau khu vực trường học nước dâng lên, chảy cuồn cuộn ào ào như thác đổ. Bỗng anh nghe có tiếng động mạnh, tiếp đến là tiếng nổ lớn, cả quả đồi phía sau trường đổ ầm ầm xuống căn phòng anh Dũng đang ở và hai dãy phòng học lớp bốn. Anh Dũng bị bùn đất vùi lấp sâu đến một mét. Nhờ được đồng bào và anh chị em giáo viên cứu nạn kịp thời, nhưng do anh bị thương tật nửa người, phải hưởng chế độ mất sức và nghỉ dạy.
 
Với đồng lương ít ỏi cùng với số tiền chèo đò, hai vợ chồng chị Hoàng chật vật nuôi các con ăn học trưởng thành. Thương anh Dũng cả đời vất vả, giờ bệnh tật hành hạ, chị Hoàng cố bám vào con đò kiếm chút tiền lo thuốc thang cho anh, vừa để nhớ về kỷ niệm một thời chưa xa. Cũng tại bến đò này mà anh chị đã nên duyên vợ chồng. Tình nghĩa sâu nặng ấy như dòng sông trong xanh biếc, như những bông lau trắng muốt dưới ánh nắng trời chiều chói chang rực rỡ.

Truyện ngắn của ĐỨC VƯƠNG
(Dẫn nguồn baoquangngai)

Có thể bạn quan tâm

Khi sông gặp biển

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khi sông gặp biển

(GLO)- Giữa dòng chảy ký ức, bài thơ "Khi sông gọi biển" của tác giả Nguyễn Thanh Mừng gợi về hình bóng con sông xưa với lời hẹn thơ ngây, thể hiện nỗi niềm tiếc nuối trước những đổi thay. Sông vẫn đợi, chỉ người đã không còn như trước.

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

(GLO)- Suốt 50 năm qua, bà Kpă H’Mi (SN 1961, buôn Chư Jú, xã Ia Rsai, huyện Krông Pa) vẫn luôn say mê những giai điệu dân ca Jrai. Bà là niềm tự hào của buôn làng khi không chỉ lưu giữ mà còn truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ thêm yêu và gắn bó với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Mắt hạ cho nhau

Thơ Lenguyen: Mắt hạ cho nhau

(GLO)- "Mắt hạ cho nhau" của Lenguyen là khúc ngân dịu dàng của tuổi học trò, nơi bằng lăng tím, phượng đỏ và tiếng ve gọi về ký ức. Bài thơ chan chứa hoài niệm, tiếc nuối những rung động đầu đời chưa kịp nói thành lời.

“Tên Người là cả một niềm thơ”

“Tên Người là cả một niềm thơ”

(GLO)- Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai) hiện trưng bày, giới thiệu nhiều hình ảnh, tài liệu, hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Một trong số đó là tập sách “Tên Người là cả một niềm thơ” do ông Nguyễn Khoa-Cán bộ lão thành cách mạng trao tặng năm 2004.

Mới mẻ “Trang sách mùa hè”

Mới mẻ “Trang sách mùa hè”

(GLO)- 12 năm liên tục duy trì chương trình “Trang sách mùa hè” cũng là chừng ấy thời gian cán bộ, viên chức Thư viện tỉnh dành nhiều tâm huyết để tạo ra một không gian vừa học vừa chơi mới mẻ, hấp dẫn.

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023); 47 năm Ngày Quốc tế Bảo tàng (18/5/1978 - 18/5/2025), sáng 12-5, Bảo tàng tỉnh Bình Định phối hợp Bảo tàng Quang Trung khai mạc triển lãm ảnh chủ đề “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”.

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.