(GLO)- Gia Lai có hàng chục Công ty TNHH một thành viên Sản xuất Nông-Lâm nghiệp quốc doanh quản lý, khai thác và sử dụng hàng trăm ngàn ha đất sản xuất. Quá trình quản lý, sử dụng quỹ đất, các đơn vị đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Tuy nhiên theo khảo sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh mới đây thì hoạt động của các Công ty TNHH một thành viên Sản xuất Nông-Lâm nghiệp chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
![]() |
Khảo sát tại Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đak Roong. Ảnh: N.D |
Theo thống kê của cơ quan chuyên môn, toàn tỉnh hiện có 20 Ban Quản lý Rừng phòng hộ, 11 Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kon Chư Răng cùng 2 Công ty TNHH một thành viên Chè, 4 Công ty TNHH một thành viên Cao su quản lý và sử dụng quỹ đất rất lớn. Việc quản lý, sử dụng quỹ đất; giao và cho thuê đất của các đơn vị đảm bảo đúng quy hoạch, quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Nổi bật, các công ty đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa bàn đứng chân. Điển hình, Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Pah từ năm 2007 đến nay đã đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng còn khó khăn như việc đầu tư xây dựng nhà trẻ cho xã Hà Tây, cầu Đak Pơ Tông, nhà ở cho công nhân, cầu bản Hà Tây…
Nhất là tuyến đường láng nhựa vào làng Kon Sơ Lá, xã Hà Tây; đường qua đồi 109 nối xã Hà Tây với xã Đak Sơ Mei, huyện Đak Đoa; đường liên xã Ia Tô-Ia Pết (huyện Ia Grai). Bên cạnh đó, Công ty còn hỗ trợ địa phương 3 tỷ đồng khai hoang 100 ha đất cho dân sản xuất; giao khoán theo Nghị định 01/CP của Chính phủ khoảng 8.784 ha.
Theo ông Nguyễn Ngọc Quang-Phó Chủ tịch UBND huyện Chư Pah thì: Việc gắn kết giữa Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Pah với các xã, thị trấn là tốt nhất so với các công ty đứng chân trên địa bàn huyện. Mong muốn lớn nhất hiện nay của chính quyền địa phương là Công ty tiếp tục phát huy vai trò “bà đỡ” giúp người dân phát triển kinh tế ổn định.
Cũng như Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Pah, Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đak Roong, huyện Kbang đã tích cực tham gia đầu tư xây dựng 4 công trình thủy lợi phục vụ nước tưới 100 ha lúa nước 2 vụ cho 5 làng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Không những vậy, đơn vị còn xây dựng thêm đường liên xã vào các khu vực sản xuất… Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, các đơn vị còn có nhiều cách làm hay, tạo ra nhiều việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại chỗ giúp nhiều nông dân phát triển kinh tế thoát nghèo như giao khoán vườn cây cho hộ gia đình; hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc; bao tiêu sản phẩm cho người nhận khoán…
Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và PTNT, sự hiện diện của các Công ty TNHH một thành viên đã đóng góp tích cực vào quy trình hoàn thiện hạ tầng cơ sở vùng nông thôn, đồng thời tạo điều kiện cho người dân ổn định cuộc sống.
![]() |
Ảnh: Nguyễn Diệp |
Thu hút lao động còn ít
Khảo sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh mới đây cho thấy, ngoài trừ các công ty cao su, phần lớn các đơn vị còn lại chưa thu hút lao động là đồng bào DTTS vào làm việc. Trong vòng 5 năm (2007-2012), Công ty TNHH một thành viên Chè Bàu Cạn chỉ có 30 lao động là đồng bào DTTS vào làm việc.
Tuy nhiên, con số này còn cao hơn 7 lần so với Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đak Roong. Còn Công ty Cà phê Đak Đoa (thuộc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam) được mệnh danh là doanh nghiệp Trung ương đứng chân trên địa bàn tỉnh cũng chỉ có 19 công nhân là đồng bào DTTS làm nhiệm vụ chăm sóc vườn cao su thời kỳ kiến thiết cơ bản.
Theo đánh giá của ông Trần Quang Khanh- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT thì: Việc Công ty Cà phê Đak Đoa chỉ có 19 lao động là đồng bào DTTS là quá ít so với mục đích sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời đặt ra câu hỏi: Nếu cây cao su qua giai đoạn kiến thiết cơ bản liệu đơn vị có sử dụng họ nữa không? Từ góc nhìn này, ông Khanh đề nghị các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Trung ương đứng chân trên địa bàn cần có trách nhiệm hơn trong việc thu hút đồng bào DTTS tại chỗ vào làm việc, giúp đồng bào có thu nhập ổn định cuộc sống.
Đồng quan điểm với ông Khanh, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh-ông Huỳnh Thành khẳng định: “Việc các Công ty TNHH một thành viên Sản xuất Nông-Lâm nghiệp cần thu nhận nhiều hộ đồng bào DTTS vào làm việc là hết sức cần thiết”.
Hiệu quả sử dụng đất chưa cao
Theo đánh giá chung của cơ quan chức năng, hầu hết các Công ty TNHH một thành viên Sản xuất Nông-Lâm nghiệp đều chấp hành nghiêm túc việc quản lý, sử dụng diện tích đất được giao. Tuy nhiên trước nhu cầu đất canh tác hiện nay, thực trạng xâm lấn đất trái phép vẫn xảy ra.
Từ năm 2007 đến nay, diện tích đất do Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đak Roong quản lý bị dân lấn chiếm 6 ha, bình quân mỗi năm diện tích đất lấn chiếm 1,1 ha. Còn Công ty TNHH một thành viên Chè Bàu Cạn cũng bị người dân lấn chiếm 0,3 ha, ngoài ra đơn vị đã mất 15 ha đất phải giao lại cho địa phương quản lý sử dụng.
Tại Công ty Cà phê Đak Đoa cũng đã có 0,5 ha đất bị người dân lấn chiếm. Thống kê sơ bộ của cơ quan chuyên môn, từ năm 2008 đến nay toàn tỉnh đã có 1.845 ha rừng thuộc sự quản lý của các Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp và Ban Quản lý Rừng phòng hộ đã bị người dân xâm lấn trái phép.
Ông Trần Xuân Hùng- Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho rằng: “Diện tích đất của Công ty Cà phê Đak Đoa bị lấn chiếm 0,5 ha là không lớn. Vì vậy, UBND huyện Đak Đoa chỉ đạo các phòng chuyên môn giải quyết triệt để giao đất lại cho đơn vị; còn nếu người dân thực sự thiếu đất Công ty nên cắt hẳn giao lại cho họ. Quá trình thực hiện phải kiên quyết để tránh tạo tiền lệ.
Tuy nhiên, ông Hùng lưu ý mức giao khoán 11 tấn/ha, trong khi vườn cây cà phê của đơn vị năng suất có thể đạt đến 18-20 tấn/ha là thấp dẫn đến hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Mỗi năm đơn vị nộp ngân sách nhà nước chỉ có 300 triệu đồng là… quá ít”.
Ông Huỳnh Thành- Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh nhận xét: “Qua đợt khảo sát cho thấy, hầu hết Công ty TNHH một thành viên Sản xuất Nông-Lâm nghiệp đều chấp hành tốt các chính sách pháp luật. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất của từng đơn vị khác nhau, một số đơn vị cần phải xem xét lại hiệu quả sử dụng. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét giải quyết kiến nghị của các doanh nghiệp về chính sách miễn giảm thuế đất cho các đơn vị sử dụng lao động người DTTS. Đặc biệt, doanh nghiệp từ rừng cần có mô hình chuyển đổi sớm để có cơ chế chính sách phù hợp.
Nguyễn Diệp