Theo Đảng, người dân Tây Nguyên không chỉ làm nên những kỳ tích trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong công cuộc xây dựng đất nước, đồng bào cũng thể hiện đức tính cần cù, giàu ý chí, khát vọng vươn lên. Tuy nhiên, do vị trí địa lý và lịch sử cư dân đặc thù, điểm xuất phát về nền tảng kết cấu hạ tầng khu vực thấp, mặt bằng dân trí chưa cao. Bởi vậy, để phát triển nhanh và bền vững khu vực Tây Nguyên rất cần sự vào cuộc quyết liệt, sự hỗ trợ tích cực của các cấp, các ngành, các lực lượng xã hội…
|
Giao thông Tây Nguyên được ưu tiên đầu tư. Trong ảnh: Tuyến đường cao tốc Liên Khương - Đà Lạt |
Tập trung nguồn lực đầu tư
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư toàn diện, triển khai nhiều nghị quyết, tổ chức nhiều chương trình và ưu tiên những nguồn lực lớn nhằm phát triển Tây Nguyên. Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Quyết định 168 của Thủ tướng Chính phủ về “Phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng vùng Tây Nguyên”, các các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều chương trình, dự án cụ thể triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực.
Thực hiện Quyết định 168 đến các quyết định 132, 134, 135 của Thủ tướng Chính phủ đã giải quyết cơ bản vấn đề đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt và các điều kiện thiết yếu cho đồng bào DTTS. Với sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư của Trung ương, sự nỗ lực của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong những năm qua, kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đã có bước phát triển nhanh; sản xuất và đời sống của đồng bào chuyển biến tích cực. Trên vùng đất năm tỉnh phía tây Tổ quốc, ngôi nhà chung của 5,6 triệu người thuộc 47 dân tộc anh em, khắp các buôn làng, phố thị cuộc sống ngày càng khởi sắc.
Tây Nguyên trong ký ức là miền xa xôi, heo hút. Bởi lẽ đó, trong nhiều năm qua, Nhà nước phát huy mọi nguồn lực nhằm phát triển giao thông tại vùng. Ngày nay, đường bộ toàn mạng lưới có độ dài gần 40.000 km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ chạy qua Tây Nguyên có tổng độ dài 2.517 km; các liên tỉnh lộ gần 2.035 km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối liền Tây Nguyên với các nước láng giềng. Đường Hồ Chí Minh cùng đường hành lang Đông - Tây xuyên qua vùng đã làm thay đổi diện mạo những buôn làng từng là vùng sâu, vùng xa. Hàng không phát triển với ba sân bay: Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Plây Cu. Dự án khôi phục đường sắt Đà Lạt - Tháp Chàm và mở tuyến đường sắt mới phục vụ cho các nhà máy Alumin Nhân Cơ, Tân Rai đang được tính toán.
Giao thông tiện lợi, chuỗi các đô thị Tây Nguyên nối liền vào nhau, những thành phố trong khu vực trở thành những đầu tàu kinh tế - xã hội toàn vùng. Mỗi thành phố có những lợi thế và bản sắc riêng. Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk, đồng bằng giữa miền cao nguyên đất đỏ, là thủ phủ “cà phê”. Đà Lạt, một trung tâm du lịch, vùng chuyên canh rau, hoa lớn nhất nước. Plây Cu, quê hương của hồ tiêu, cao su, nơi khởi nguồn của nhiều doanh nghiệp lớn ngành chế biến nông, lâm sản. Gia Nghĩa trẻ trung đang thu hút nhiều dự án đầu tư mới.
Tây Nguyên trở thành vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước với gần 600.000 hécta cà phê, sản lượng bình quân đạt 1,3 triệu tấn hàng năm; 72.000 hécta hồ tiêu sản lượng đạt từ 121.000 tấn hàng năm; cao su, điều, rau, hoa và các nông sản khác cũng phát triển mạnh. GDP bình quân đầu người xấp xỉ 40 triệu đồng…
|
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng đại biểu đồng bào các dân tộc bên bia đá khắc Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam của Bác Hồ - tại TP Plây Cu |
Đảng và Nhà nước tổ chức cho người dân ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu. Khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, tiếp cận thành công kinh tế thị trường nên trên vùng đất này đã xuất hiện nhiều tỉ phú người DTTS. Đặc biệt, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực đã tiếp thêm sinh khí và mang lại bộ mặt tươi mới cho Tây Nguyên. Đời sống người dân khởi sắc; điện, đường, trường học, cơ sở y tế và nhiều công trình hạ tầng, phúc lợi khác mọc lên nhiều hơn.
Ở Tây Nguyên, sau mười năm triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, Lâm Đồng là tỉnh đạt kết quả cao nhất với hai huyện và hơn 90/116 xã đạt chuẩn. Con số 51.000 tỷ đồng đầu tư xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Đắk Lắk, trong đó, có gần 5.000 tỷ huy động từ doanh nghiệp và Nhân dân đã nói lên hiệu quả của chương trình. Tại Gia Lai, đến thời điểm này đã có 60/184 xã và một thị xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Có thể nói, cùng với việc quy hoạch, triển khai đầu tư phát triển các đô thị, các tỉnh Tây Nguyên đang nỗ lực thực thi các giải pháp để nâng cao tốc độ phát triển nông thôn, nhất là vùng đồng bào DTTS, rút ngắn khoảng cách thu nhập và điều kiện thụ hưởng các lợi ích an sinh. Cùng với việc mở mang các khu, điểm, cụm công nghiệp, các dự án lớn, việc triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới đến tất cả các huyện, xã, buôn, làng đã góp phần cải thiện hạ tầng, nâng cao nhận thức và giúp đồng bào đẩy lùi nghèo đói, hướng đến sự no đủ giàu có.
Đồng thời, với việc bản sắc văn hóa được bảo tồn, đồng bào còn được hưởng những chính sách ưu đãi về giáo dục, y tế và các chính sách an sinh xã hội khác. Quy mô giáo dục ngày càng phát triển đến tận cơ sở, hệ thống cơ sở trường học tiếp tục được đầu tư xây dựng, số lượng trường học các cấp tăng, tỷ lệ học sinh đến trường cao, chất lượng giáo dục trong vùng đồng bào DTTS ngày càng được nâng lên. Công tác đào tạo nguồn nhân lực được các địa phương quan tâm; trong đó, số lượng sinh viên người DTTS được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tăng khá. Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe Nhân dân ngày càng có nhiều tiến bộ; tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế toàn vùng đạt trên 55%, trạm y tế có bác sĩ đạt trên 88%, số bác sĩ trên một vạn dân đạt 7,42% (cả nước 7,61%); tỷ lệ dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 72%. Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng còn khoảng 15% và hộ cận nghèo còn khoảng 4,5%...
Tuy nhiên, từ các vụ việc xảy ra gần đây cho thấy, Tây Nguyên vẫn luôn tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định. Ngoài những nguyên nhân như đã phân tích, nội tại khu vực cũng còn nhiều vấn đề cần lưu tâm. Đó là cơ cấu kinh tế có chuyển biến nhưng còn chậm, chưa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn. Công tác quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả chưa cao, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng vẫn diễn biến phức tạp. Vấn đề đất đai tiếp tục bộc lộ nhiều bất cập, nhất là việc bố trí đất sản xuất cho đồng bào DTTS thiếu đất, các dự án ổn định dân cư. Công tác giảm nghèo trong vùng đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn, chưa có giải pháp căn cơ nhằm giảm nghèo bền vững. Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn ngấm ngầm chống phá thông qua “Tin Lành Đề Ga”, “Hà Mòn” và các tà đạo khác…
|
Cán bộ công an, kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng tuyên truyền pháp luật tại cơ sở |
Chung tay, góp sức
Vì sự bình yên, phát triển của vùng đất Tây Nguyên, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào, trong những năm qua, từ cấp ủy, chính quyền, cả hệ thống chính trị đến các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp đều tích cực chung tay, góp sức. Khẳng định rằng, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Mặt trận Tổ quốc, Dân vận là những “bộ máy cái”, các tổ chức của nông dân, cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên… đều có những chương trình, dự án riêng trong hoạt động đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, nhất là những căn cứ kháng chiến cũ.
Các đơn vị, doanh nghiệp như ngân hàng, điện lực, xây dựng… coi việc đầu tư hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, đời sống là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Tác động về kinh tế - xã hội thì đã rõ nhưng quan trọng hơn, các chương trình, dự án ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đã đem lại ý nghĩa về mọi mặt, mà trước hết đó là sự thể hiện sinh động nhất của “ý Đảng hợp lòng Dân”.
Cũng như các tỉnh trong khu vực, nhiều năm qua qua, Gia Lai xác định rõ chương trình xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ không riêng của ngành nào, cấp nào; phương châm chỉ đạo là tập trung cho những nơi có đông đồng bào DTTS khó khăn, căn cứ kháng chiến cũ và vùng biên giới. Tỉnh phát động phong trào tham gia xóa đói giảm nghèo rộng khắp trong toàn xã hội. Nhiều mô hình kết nghĩa đã giúp bà con các DTTS vượt qua đói nghèo, ổn định cuộc sống mang lại hiệu quả cao và được nhân rộng, như huyện Kbang. Tại huyện này, các lâm trường đứng chân trên địa bàn, bốn công ty cao su, các đơn vị quân đội thuộc Binh đoàn 15 đã đỡ đầu, kết nghĩa với các làng, xã khó khăn, nhận hàng ngàn lao động là đồng bào DTTS vào làm công nhân, nhận khoán trên 20.960 ha cây trồng các loại.
Tỉnh cũng đã lồng ghép chương trình xóa đói giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia về định canh định cư, cấp đất ở và đất sản xuất, hỗ trợ vốn ưu đãi, hỗ trợ mua nhà trả chậm và các chính sách xã hội khác. Chỉ riêng Chương trình 135, từ năm 2002 đến nay, nguồn kinh phí đầu tư cho 309 buôn, thuộc 68 xã đặc biệt khó khăn lên đến hơn 1.500 tỷ đồng; trong số này, ưu tiên cho xây dựng các kết cấu hạ tầng nguồn vốn gần 1.000 tỷ đồng. Kinh tế phát triển đã kéo theo những chuyển biến tích cực về mặt xã hội, đời sống của người dân và bộ mặt nông thôn đã có những thay đổi đáng kể. Tỷ lệ đói nghèo của tỉnh Gia Lai đến nay còn 10,55%, bình quân mỗi năm giảm từ 3 - 4%, thu nhập bình quân đạt hơn 42 triệu đồng/người/năm…
Vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, nhiều năm qua, các đơn vị lực lượng vũ trang trên địa bàn Tây Nguyên còn bám buôn làng giúp Nhân dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống. Trên mọi nẻo đường Tây Nguyên luôn có sự hiện hữu của lực lượng vũ trang Quân khu 5, Quân khu 7, các quân đoàn, binh đoàn; các đoàn kinh tế - quốc phòng, các đơn vị bộ đội địa phương. Hình ảnh những người lính chung tay, góp sức xây dựng buôn làng giàu đẹp, sẻ chia nỗi khó khăn cùng dân đã góp phần tô đẹp truyền thống vẻ vang “Anh bộ đội Cụ Hồ”.
Mô hình Công ty 72 (Binh đoàn 15) là một điển hình rõ nét. Đứng chân trên địa bàn biên giới, nhiệm vụ chính trị của đơn vị là phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh, xây dựng dân cư xã hội trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Bên cạnh nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, công ty luôn thực hiện tốt phương châm: “Binh đoàn gắn với tỉnh, huyện; công ty gắn với xã; đội sản xuất gắn với buôn làng”. Cho đến nay, công ty có 16 đội sản xuất kết nghĩa với 16 buôn làng, 1.012 hộ công nhân người Kinh gắn kết với 1.012 hộ đồng bào DTTS.
Hưởng ứng phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, Công ty 72 đã đầu tư hàng chục tỷ đồng giúp các địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng. Từ năm 2008 đến nay, công ty đã xây dựng “quỹ nghĩa tình” được 4,75 tỷ đồng để xây dựng 158 căn nhà cho người nghèo; làm 58 km đường liên thôn, xây cầu cống, nhà rông, cải tạo đồng ruộng. Ngoài ra, đơn vị còn hỗ trợ hàng chục tỷ đồng giúp đỡ các địa phương xây dựng nông thôn mới, khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho người dân có hoàn cảnh khó khăn, tặng quà các đối tượng chính sách. Từ năm 2018, công ty đã giúp làng Sơn (xã Ia Nan, Đức Cơ, Gia Lai) xây dựng làng nông thôn mới kiểu mẫu…
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, là phên dậu Tổ quốc. Muốn giữ gìn sự bình yên cho vùng đất tươi đẹp này, phải xây dựng sức mạnh nội sinh, tạo nên nguồn “kháng thể” mạnh mẽ trước mọi khó khăn, biến động. Bên cạnh tập trung mọi nguồn lực đầu tư, cấp ủy và chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã và đang phát huy trí tuệ trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo; có những điều chỉnh phù hợp, khắc phục những những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện các chính sách, nhất là chính sách đối với đồng bào DTTS. Bên cạnh phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, cũng cần đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Có như vậy, mới xây dựng được thế trận lòng dân, một thế đứng Tây Nguyên vững vàng và ngày càng giàu đẹp, phồn vinh.
UÔNG THÁI BIỂU - MAI VĂN BẢO (baolamdong.vn)