Rượu cần và Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Cho đến bây giờ, chưa có nhà nghiên cứu văn hoá nào cất công nghiên cứu "Văn hóa rượu cần" ở Tây Nguyên một cách đầy đủ như là một công trình nghiên cứu sâu sắc nhất, đúng nghĩa nhất.
Đó là một điều đáng tiếc. Tôi thấy đây là một đặc điểm sinh hoạt văn hóa folklore (dân gian) rất đặc thù của vùng cao nguyên rừng núi giàu truyền thống này.
Nếu như người Việt xưa lấy "miếng trầu làm đầu câu chuyện" thì người Tây Nguyên coi tiếp khách, đãi bạn hay tổ chức các cuộc gặp mặt, nhỏ lẻ hay đông vui đều không thể thiếu rượu cần để đưa chuyện.
Thiếu rượu cần, không nên việc

Rượu cần tham gia vào mọi sinh hoạt lớn nhỏ của cộng đồng. Ảnh: T.L
Rượu cần tham gia vào mọi sinh hoạt lớn nhỏ của cộng đồng. Ảnh: T.L
Càng say tít càng uống nữa. Uống đến khi rượu lạt rồi, rượu chỉ còn dính chút men lá rừng trong nước suối thôi. Khi ấy ta sẽ tỉnh táo khoẻ khoắn trở lại và bạn có biết không? Hồn rượu đã dìu ta ra khỏi cơn say tít trở về với cộng đồng đấy.
Không giống như người Việt, việc uống rượu, thưởng thức văn hoá rượu chỉ dành cho các bậc cao niên bô lão, các nhà thức giả... Ở Tây Nguyên, khi trẻ vừa lớn lên đồng thời cũng là quá trình tập uống rượu cần và tập múa (xoang), chơi các nhạc cụ dân tộc như đánh cồng chiêng, đàn t'rưng, đàn goong, t'ní, k'lôngput, đinh tuk, đinh yơng… Nhạc cụ có loại nhạc cụ phân biệt trai gái, nhưng rượu cần thì không. Rượu cần có ở trong nhà, ngoài chòi rẫy, thậm chí cất ở trong kho ngoài rừng. Rượu cần tham gia vào mọi sinh hoạt lớn nhỏ của cộng đồng, từ lễ hội pơthi - một lễ hội lớn nhất của đồng bào Tây Nguyên, cho đến đôi ba người tâm tình chuyện trò rì rầm to nhỏ tâm sự chuyện vui chuyện buồn suốt ngày thâu đêm.
Đối với cộng đồng, mọi sinh hoạt nếu cuộc nào thiếu rượu cần là không thể. Nếu làng xã buôn sang có việc mà không có rượu cần thì việc ấy trở nên nhạt nhẽo, không ra gì. Rượu cần là chất xúc tác gắn kết người ta với nhau. Đầu tiên và sau cùng. Không rượu cần thì rất khó lôi kéo tụ tập được ai. Chưa nói lễ hội thì không thể không có rượu cần. Lễ hội nào cũng có luật lệ, có loại không thành văn. Có loại được người già nhớ nằm lòng. Có loại hội đồng các già làng ai ai cũng thuộc và không ai đòi hỏi "văn bản", ấy là trước tiên xem xét xem rượu cần ít nhiều, ngon hay không ngon, ghè to ghè nhỏ, ghè cổ hay ghè mới, giá trị cái ghè (bao bì!) tính bằng trâu bằng chiêng ché… nhưng lại chuẩn nhất.
Không có một loại hình sinh hoạt công cộng nào mà thiếu rượu cần. Đối với cá nhân và mỗi gia đình, thiếu rượu cần là thiếu phần hồn cho những câu chuyện, kể cả chuyện tâm tình lẫn chuyện làm ăn.

Hàng trăm ghè rượu đã được chuẩn bị cho buổi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Ảnh: Hoàng Ngọc
Hàng trăm ghè rượu đã được chuẩn bị cho buổi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Ảnh: Hoàng Ngọc
Nếu đo độ của rượu cần chắc chỉ ngang với bia hơi. Ghè rượu ngon - dở còn tùy thuộc vào tay người làm, tùy thuộc vào nguyên liệu và quan trọng hơn cả là kinh nghiệm của người làm ra nó.
Người Tây Nguyên nói chung rất tôn trọng các luật tục truyền thống. Trong luật tục không thành văn của người Jrai và người Ba Na, kẻ uống rượu say quậy phá bị phạt rất nặng. Kẻ uống rượu say nằm ngủ không quậy phá, tức là đang được thần ghè rượu nâng giấc, đón đi chơi ngoài rừng. Rượu cần không phân biệt giàu nghèo. Dù giàu có như các tù trưởng thuở trước, hay nghèo khó như bà cháu Yạ Bôm - một nhân vật nghèo khổ trong các truyện cổ tích, trong các truyền thuyết dân gian, thì cũng vẫn phải tuân theo lệ tục của ông bà để lại.
Rượu cần có mặt ở cả trong nhà giàu sang quyền quý lẫn nhà nghèo xác xơ. Chỉ cần một gùi sắn là người ta có thể có một ghè rượu ngon. Một ghè rượu ngon cũng có khi trị giá hàng chục con trâu bởi cái ghè cổ cả vùng chỉ có một, và bởi người chủ của nó cúng thần ghè bằng trâu, bò, heo, gà, mời được cả PLei (làng) uống chung, được các già làng gật gù tán thưởng. Rượu cần được phân chia thành đẳng cấp sau khi con người ở nơi đây có kẻ giàu người nghèo, cũng như mọi thứ vật dụng sinh hoạt khác.
Luật uống rượu cần cũng đơn giản và cũng không đơn giản chút nào. Dù ghè rượu nhỏ, vài ba người uống với nhau, trước khi uống người chủ ghè phải cúng xin thần linh, đọc lời khấn. Những cuộc liên hoan lớn, người uống can (đơn vị đo rượu cần tính từ miệng ghè xuống hơn một đốt ngón tay) đầu tiên phải là già làng, rồi đến các già làng trong hội đồng bô lão, sau đó đến khách khứa và các nhà chức sắc, và cuối cùng là đến toàn dân.
Rượu cần và tấm lòng nồng hậu
Người Tây Nguyên theo đa thần giáo. Tất cả mọi vật quanh ta đây đều có hai phần: Phần xác và phần hồn. Cái phần hồn ta không nhìn thấy nên phải cúng và gọi chung là yàng (có học giả dịch Yàng là Thần linh, lại có học giả dịch Yang là Trời, là Thần, còn tôi dịch là Hồn). Hồn núi. Hồn sông. Hồn nước Hồn cây. Hồn đá. Hồn ché rượu… Người Tây Nguyên không quan niệm thế giới bên kia là âm ti như người Việt, mà họ cho rằng sau khi chết "cái hồn" vẫn lẩn quất đâu đây, nó cần được ăn, được uống như người sống, chỉ đến khi làm lễ bỏ mả (pơthi), lễ tiễn đưa hồn pơtâu (hồn ma) về thế giới bên kia, nơi ấy cũng ở trên mặt đất này, nhưng xa lắm, cuối rừng cuối núi, nơi ấy, mọi thứ đều ngược lại với chúng ta: Ngày là đêm. No là đói. Sướng là khổ. Sống là chết. Buồn là vui...
Rượu cần được chế tác từ gạo, củ sắn, quả chuối chín, mít , kê, ngô… Men rượu cần được làm từ củ riềng, ớt, một số rễ lá cây rừng vừa rất đơn giản lại cũng vừa rất cầu kỳ, không khác quá trình ủ men của người Việt là mấy, chỉ khác là sau khi ủ men, người ta trộn với trấu (để khi cắm cần uống không bị trít lỗ), và cho vô ghè, dùng lá chuối bịt kín, chừng 10 ngày sau rượu ngấu, đem ra, chế nước suối vô là cắm cần uống được. Vị của rượu cần: Ngòn ngọt, cay cay, chua chua, đăng đắng.
Tôi đã nhiều lần được cùng bà con các dân tộc Tây Nguyên uống rượu cần. Sau mỗi trận đánh, về làng, bà con lấy ra ché rượu cho các con (bộ đội) giải phóng uống bồi dưỡng. Tôi cũng đã từng nhiều lần được cùng bà con uống rượu cần trong lễ hội mừng được mùa, lễ hội ăn cốm mới, đám cưới, đám ma…
Tôi nhớ những đêm sâu hun hút trong rừng già, cánh lính huyện đội chúng tôi ngồi chụm đầu bên các già làng, quanh ché rượu cần, bàn chuyện phá ấp dành dân, bàn chuyện liên hoan văn nghệ mừng ngày thắng trận. Tôi nhớ những đêm ngoài chòi rẫy cùng bà con canh chừng bọn thú rừng, bên bếp lửa nhà chòi, nằm gối đầu lên gộc củi, ăn thịt thú rừng nướng, nghe các nghệ nhân hát thâu đêm suốt sáng. Đa số các câu chuyện về những chàng trai tráng, giỏi đánh trận, giỏi săn thú và giỏi đan lát, giỏi cung tên, tài leo núi luồn rừng như các chàng Dăm Yông, Đăm Ji, về anh em Yoong Yứ đạp núi núi lở, chạy trên mặt nước thần, cưỡi trên mây trên gió đánh bọn cướp cứu nàng H'Bia xinh đẹp về buôn với cảnh hoành tráng, rượu cần xếp từ trên nhà rông tràn xuống sân làng, người quanh vùng tới uống múa hát mừng chiến thắng rộn ràng ngày nọ nối ngày kia có cả Mười con trăng!
Tôi cũng đã có nhiều lần say tít mù vì rượu cần, vì tấm lòng nồng hậu của bà con Tây Nguyên. Và vì bị say nhiều mà tôi được các bạn chung ghè trao cho kinh nghiệm mà tôi rút ra một bài học, nếu say tít thì hãy uống nữa, uống nữa. Càng say tít càng uống nữa. Uống đến khi rượu lạt rồi, rượu chỉ còn dính chút men lá rừng trong nước suối thôi. Khi ấy ta sẽ tỉnh táo khoẻ khoắn trở lại và bạn có biết không? Hồn rượu đã dìu ta ra khỏi cơn say tít trở về với cộng đồng đấy. 
Theo Trung Trung Đỉnh (Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm