Những mảnh đời trôi nổi của người Việt trên Biển Hồ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những người gốc Việt trên Biển Hồ phải tìm cách ứng phó với thiên tai, dòng nước và cả với tình trạng bấp bênh của họ tại đây. Nhưng nhiều người không muốn rời đi.
 

 

Đây là một gian bếp, trông rất bình thường trừ việc nó nằm trên mặt nước, chính xác là nằm trên Biển Hồ, Campuchia. Như mọi căn nhà khác ở đây, nó đối mặt với hàng loạt nguy cơ mà dòng nước mang lại, đặc biệt trong mùa mưa. Vào cuối tháng 7, lúc nào cũng có việc cho Taing Hoarith làm với ngôi nhà của ông. Khi thì ông phải sửa lại bức tường lợp bằng lá cọ đã bị bão làm hư, khi thì ông phải dọn dẹp đám cây mọc trong nước. Đôi khi ông phải lặn xuống bên dưới căn nhà, miệng ngậm một ống cao su và chèn vào những hũ xi măng đang giữ căn nhà đứng vững trên nước.
 

 

Hoarith là người đàn ông làm nghề thủ công lành nghề nhất trên Biển Hồ. Mỗi buổi sáng, ông thức dậy lúc 5h, mua chén mì từ một chiếc ghe chạy ngang qua, cùng loại với chiếc ghe mà vợ ông, bà Vo Thi Vioh dùng để bán hàng rau. Sau khi bà đi rồi, ông cuốn tấm thảm trải nền lên rồi bắt đầu một ngày của mình. Ở ngoài kia, những người phụ nữ trên ghe bán từ bình ga, súp đến nước có ga. "Tôi biết rõ Biển Hồ như lòng bàn tay mình", ông nói.
 

 

Chong Koh, nơi Hoarith và vợ sống, là một trong hàng trăm ngôi làng nổi ở Tonle Sap, hệ thống sông và hồ ở Campuchia thường được biết đến với tên tiếng Việt là Biển Hồ. Các học giả độc lập cho biết có khoảng 400.000 - 1 triệu người sống tập trung ở vùng Biển Hồ và không được công nhận là công dân Campuchia. Bài điều tra của New York Times và Trung tâm Pulizer về Đưa tin Khủng hoảng cho thấy hoàn cảnh khó khăn của những người gốc Việt ở vùng Biển Hồ.
 

 

New York Times nhận định rằng rất dễ để quy kết rằng những ngôi làng nổi là hậu quả của những cuộc tị nạn chính trị. Dù vậy, lịch sử những ngôi làng này dài và có nhiều điểm chưa rõ ràng. Nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot, người "khám phá" Angkor Wat vào thập niên 1850 - dù nó chưa từng "thất lạc" trong mắt cư dân địa phương, từng ghi chép về một cộng đồng người sống trên sông ở Phnom Penh với khoảng 20.000 người, gấp đôi số người sống trên cạn. Ông diễn tả đó là một cuộc sống với những ghe thuyền nơi người Khmer lẫn người Việt sinh sống, buôn bán cạnh nhau.
 

 

Ký ức của dân làng về lịch sử ngôi làng thường là qua trí nhớ và những lời kể chứ không được ghi chép. Một số người xác nhận ghi chép của nhà thám hiểm người Pháp rằng họ sống trôi nổi quá nhiều thế hệ để tránh bị tác động bởi việc làm nông khi mùa màng thất bát. Một số người nói họ từng có đất và trước đây chỉ thi thoảng sống trên nước. Một số khác lại nói họ vốn luôn sống trên thuyền để dễ bắt cá.
 

 

Những đứa trẻ không thể vào học các trường công lập, người lớn không mở được tài khoản ngân hàng, thi lấy bằng lái xe, vào công xưởng làm việc hay sở hữu nhà đất.
 

 

Những người gốc Việt này nói rằng họ thường phải hối lộ cảnh sát, quan chức, thậm chí là những người giả dạng nhà báo địa phương.
 

 

Một buổi sáng, nhà báo của New York Times cùng hai người gốc Việt, Samnang và Hoarith, đến thăm ngôi trường và ngôi chùa Việt mà những người làng Chhnok Trou từng lui tới. Trong ảnh, bàn thờ và ảnh chân dung đặt trong ngôi chùa người Việt ở Chhnok Trou.
 

 

Không giống người Khmer, người Việt không hỏa táng mà chôn cất người thân đã qua đời của họ. Những bia mộ là bằng chứng không thể xóa bỏ về sự hiện diện đã rất lâu của người Việt ở Biển Hồ.
 

 

Dòng nước luôn mang lại những hiểm họa. Samnang nói rằng đứa cháu 4 tuổi của anh đã chết đuối năm 2017 trong lúc cha mẹ đi làm. Những đứa trẻ dưới 5 tuổi ở đây, nếu bố mẹ chúng đủ tiền, sẽ được mặc áo phao. Những gia đình khác tự chế "phao cứu sinh" cho con họ, điển hình như một chai dầu xe rỗng được đeo vào cổ một đứa trẻ sơ sinh.
 

 

Cả Hoarith lẫn Samnang (ảnh) đều không muốn rời vùng hồ. Đôi lúc, Hoarith nghĩ rằng ông có thể sống với họ hàng của vợ ông tại Việt Nam. Nhưng ông muốn sống ở hồ. Đó là một vùng hồ mở, đầy hiểm nguy nhưng ông sẽ được ở gần tổ tiên của mình.

Phương Thảo/zing

Có thể bạn quan tâm

Đốn hạ rừng phòng hộ để săn ươi

Đốn hạ rừng phòng hộ để săn ươi

Với tính đặc thù và sự khan hiếm nên giá ươi luôn 'nhảy múa' theo mùa vụ. Giá cao khiến ngày càng đông người vào rừng săn ươi, dẫn đến tình trạng khai thác theo kiểu tận diệt, đốn hạ cây ươi để lấy quả, ảnh hưởng nghiêm trọng công tác bảo tồn hệ sinh thái rừng tự nhiên ở H.Bù Đăng (Bình Phước).
Đốn hạ rừng phòng hộ để săn ươi: Đánh dấu để tỉa cành, chặt hạ

Đốn hạ rừng phòng hộ để săn ươi: Đánh dấu để tỉa cành, chặt hạ

Cứ mỗi độ vào mùa, người dân lại đổ xô vào rừng săn lùng quả ươi. Để xí phần, nhóm người săn ươi đánh dấu bằng cách dùng dao, rựa chặt vạt tạo vết trên thân cây hoặc xịt sơn làm ký hiệu; và hầu hết cây ươi bị đánh dấu này đều chung số phận bị chặt hạ, tỉa cành để khai thác ươi.
'Hợp tác xã' của người trẻ - Bài 1: Khởi nghiệp nhờ… ao cá 'ế'

'Hợp tác xã' của người trẻ - Bài 1: Khởi nghiệp nhờ… ao cá 'ế'

“Hợp tác xã” là khái niệm tưởng chừng đã lùi vào “muôn năm cũ”. Tuy nhiên, nhiều người trẻ ở Đà Nẵng khởi nghiệp thành công, không chỉ làm giàu trên chính quê hương mà còn đem lại sinh kế bền vững cho người dân địa phương bằng mô hình kinh tế tập thể từ thời “ông bà anh” này.
'Bà tiên' gieo hy vọng

'Bà tiên' gieo hy vọng

Đã bước sang tuổi 82 nhưng hằng ngày bác sĩ Đỗ Thúy Nga vẫn làm việc tại Trung tâm Hy Vọng - nơi gần 60 em nhỏ khuyết tật trí tuệ đang được bà và các cô giáo chữa lành, khắc phục dần khiếm khuyết của các em.
Lời ru chim yến…

Lời ru chim yến…

Tôi vẫn tin một quy luật mặc định với những ai có cuộc sống gắn với tồn sinh của tự nhiên, rằng không quý không yêu, không trân trọng tử tế với thiên nhiên, thì cái giá trả không rẻ.