Tiếp tục nhầm lẫn về nhân vật lịch sử Trần Đức Hòa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Trần Đức Hòa là một nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Bình Định. Ông được chúa Nguyễn phong chức Khám lý phủ Quy Nhơn, tước Cống Quận công-một chức quan làm phó cho các Chánh hộ thu thuế.

Thế nhưng gần đây nhân vật Trần Đức Hòa lại được một số nhà nghiên cứu “phong tặng thêm” nhiều chức tước, công trạng, trong đó có chức Trấn thủ Quy Nhơn với vai trò “bà đỡ” khai sinh chữ quốc ngữ…

Khu lưu niệm Khám lý - Cống quận công Trần Đức Hòa tại quê nhà Bồng Sơn - Hoài Nhơn, Bình Định

Khu lưu niệm Khám lý - Cống quận công Trần Đức Hòa tại quê nhà Bồng Sơn - Hoài Nhơn, Bình Định

Những thông tin “lạ”

Từ lâu, sử sách triều Nguyễn (trong đó có Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam Nhất thống chí) và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn (Bình Định) đều cho biết: Trần Đức Hòa là người ở xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn; nay là thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông được chúa Nguyễn phong giữ chức Khám lý phủ Quy Nhơn, tước Cống Quận công. Năm 1627, ông có công phát hiện và tiến cử nhân tài Đào Duy Từ với chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên…

Thế nhưng, gần đây trên một số báo chí, sách báo, hội thảo đã xuất hiện những thông tin về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa, với những chức tước và công trạng “mới lạ”, như: Tuần phủ Quy Nhơn, Trấn thủ Quy Nhơn, Tri phủ Quy Nhơn, Quan trấn tỉnh Quy Nhơn, “bà đỡ” khai sinh chữ quốc ngữ…

PGS.TS Đỗ Bang là một trong những người đầu tiên đưa thông tin “mới lạ” về Khám lý Trần Đức Hòa. Với tư cách Chủ biên tập Địa chí Bình Định (NXB Đà Nẵng – 2006), ông Đỗ Bang cho biết: “Năm 1618, Khám lý Trần Đức Hòa mời giáo sĩ Borri đến lập giáo xứ ở phố Nước Mặn”. Tiếp đến là linh mục Võ Đình Đệ, trong cuốn Bình Định với chữ quốc ngữ (NXB Tổng hợp TPHCM - 2016), cho biết: “Việc khởi đầu sáng tạo chữ quốc ngữ là sáng kiến của các thừa sai Dòng Tên phát xuất từ việc truyền giáo cho người Việt. Ngoài ra,… người đầu tiên phải kể đến là ông Trần Đức Hòa, quan phủ Quy Nhơn”.

Tương tự, trong tập sách Một số vấn đề về chữ quốc ngữ (NXB KH-XH và tạp chí Xưa & Nay–2020), tác giả Nguyễn Thanh Quang viết: “Trần Đức Hòa là Tuần phủ khám lý phủ Quy Nhơn… Đặc biệt là sự đóng góp mang tính quyết định của quan trấn thủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa”.

Đáng lưu ý, trong cuốn Chữ quốc ngữ - Từ Nước Mặn đến Làng Sông (NXB Đồng Nai – 2016), nhà sử học Phan Huy Lê cho biết: “Chữ Quốc ngữ xuất hiện sớm ở Nước Mặn thuộc phủ Quy Nhơn, còn nhờ có vai trò của Khám lý (như Trấn thủ) Trần Đức Hòa. Điều này được miêu tả rất cụ thể trong sách của Borri”. Còn nhà sử học Dương Trung Quốc, khi giới thiệu về tập sách Một số vấn đề về chữ quốc ngữ thì khẳng định:“Đặc biệt, trong hành trình chữ viết của tiếng Việt… có sự đóng góp không nhỏ của đất và người Bình Định… Đó là việc quan Trấn thủ Quy Nhơn -Trần Đức Hòa, các văn nhân tại Nước Mặn”…, v.v…

Trong khi báo Tiền Phong điện tử ngày 30/10/2023, bài Những nhầm lẫn, ngộ nhận về Khám lý Trần Đức Hòa đã chỉ rõ đây là sai sót, nhầm lẫn. Đáng tiếc, những tác giả và cơ quan hữu quan đều không phản hồi. Và ngay trong thời gian này, tại Trung tâm Lưu trữ lịch sử (LTLS) tỉnh Bình Định hiện đang diễn ra triển lãm Sự hình thành chữ quốc ngữ tại Bình Định, triển lãm sẽ kéo dài đến cuối tháng 6/2024. Trong đó tiếp tục cho rằng Khám lý Trần Đức Hòa có vai trò “bà đỡ” phôi thai chữ quốc ngữ tại Bình Định với tư cách Tuần phủ/trấn phủ Quy Nhơn. Mới đây nhất, tạp chí Xưa và Nay (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam số 560 tháng 2/2024) có bài viết của tác giả Nguyễn Công Thành, với tiêu đề Chức quan, phẩm tước của Trần Đức Hòa qua sử liệu cũng mang tính khẳng định điều này.

Khám lý Trần Đức Hòa và Tuần phủ Quy Nhơn là hai người khác nhau!

Trong bài viết Chức quan, phẩm tước của Trần Đức Hòa qua sử liệu, tác giả Nguyễn Công Thành dẫn nguồn từ sách Đại Nam nhất thống chí, rồi lý giải một cách mơ hồ, rằng “Chức quan đứng đầu phủ Quy Nhơn có thể là “Tuần phủ khám lý”, “Tuần phủ và Khám lý”, thậm chí có thể là “Tuần phủ hoặc Khám lý”. Để đi đến kết luận rằng: “Đây là một trong những cơ sở góp phần xác định: Khám lý Trần Đức Hòa có phải là viên quan đứng đầu phủ Quy Nhơn (province de Pulucambi) như ghi chép của Borri hay không?”.

Sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Christoforo Borri (một trong những bản in đầu tiên bằng tiếng Ý – 1631) giới thiệu về quan Tuần phủ Quy Nhơn, trong đó không hề có tên Khám lý Trần Đức Hòa

Sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Christoforo Borri (một trong những bản in đầu tiên bằng tiếng Ý – 1631) giới thiệu về quan Tuần phủ Quy Nhơn, trong đó không hề có tên Khám lý Trần Đức Hòa

Trong khi trên thực tế, cuốn sách Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong của giáo sĩ người Ý Christoforo Borri không hề có đoạn nào ghi quan Tuần phủ Quy Nhơn là Trần Đức Hòa. Rất nhiều sử liệu mà chúng tôi dẫn trong bài về nhân vật “Tuần phủ Quy Nhơn” dù có một số thông tin về gia đình, năm mất… nhưng lại hoàn toàn không ghi tên. Đây chính là lỗ hổng để có những suy diễn rằng Tuần phủ Quy Nhơn chính là Trần Đức Hoà.

Đại Nam nhất thống chí cũng ghi rõ: “Năm Nhâm Dần Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế thứ 45 (Lê Hoàng Định thứ 2 – 1602) đổi phủ Hoài Nhân làm phủ Quy Nhân (Nhơn), đặt các chức Tuần phủ, Khám lý, vẫn lệ vào dinh Quảng Nam”. Điều đó có nghĩa Tuần phủ, Khám lý là hai chức vụ khác nhau. Đáng lưu ý, theo quy định quan chế nhà Nguyễn, Tuần phủ là chức thuộc Văn giai, còn Khám lý thuộc Võ giai. Chức Tuần phủ thuộc hàm Tòng nhị phẩm, trong khi Khám lý thuộc hàm Tòng thất phẩm…

Từ đó cho thấy: Trần Đức Hòa là Khám lý - Cống Quận công, và ông chưa bao giờ đảm nhiệm chức Tuần phủ Quy Nhơn. Và trên bia mộ của ông ở Hoài Nhơn từ xưa cũng ghi rõ: “Cống quận công Trần Đức Hòa – Khám lý phủ Quy Nhơn”.

Ngoài ra, còn nhiều điểm khác biệt giữa Khám lý - Cống Quận công Trần Đức Hòa và viên quan Tuần phủ cai quản Quy Nhơn giai đoạn trên, cho thấy đây không phải là một người.

Qua những cứ liệu trình bày ở trên, có thể kết luận: Khám lý Trần Đức Hòa và Tuần phủ Quy Nhơn là hai người khác nhau hoàn toàn. Và như vậy, ông Trần Đức Hòa không phải là người có “vai trò bà đỡ” phôi thai chữ quốc ngữ ở Nước Mặn- Quy Nhơn… Thiết nghĩ, đã đến lúc các ban ngành liên quan cần thẩm định, đánh giá lại các nguồn sử liệu liên quan đến Khám lý Trần Đức Hòa, đồng thời đính chính, loại bỏ những nội dung nhầm lẫn, sai lệch, phi lịch sử.

Về quê quán: các nguồn sử liệu và gia phả Trần Đức cho biết Trần Đức Hòa là người ở xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn. Còn theo Christoforo Borri thì quê của quan Tuần phủ Quy Nhơn là ở Chifù (tiếng Ý đọc là Ky Su) - Nước Mặn (hai địa điểm cách nhau khoảng 70 km). Về năm sinh năm mất: Theo nhiều nguồn sử liệu, trong đó có Đại Nam Thực Lục thì năm Đinh Mão (1627) Trần Đức Hòa vẫn còn sống và tiến cử Đào Duy Từ lên chúa Sãi… Thế nhưng, theo Borri thì quan Tuần phủ Quy Nhơn qua đời vào năm 1619.

Về gia đình: Theo gia phả tộc Trần Đức thì Trần Đức Hòa không có anh, chị em; còn theo Borri thì gia đình quan Tuần phủ có một số anh chị em, trong đó có người chị gái. Theo sử sách triều Nguyễn và gia phả họ Trần Đức thì Khám lý Trần Đức Hòa có người con gái là Trần Thị Chế, quê ở Bồ Đề (Bồng Sơn), gả cho Đào Duy Từ. Còn theo Borri thì người con gái của quan Tuần phủ Quy Nhơn quê ở Nước Mặn, có chồng là Sứ thần triều Nguyễn, từng đi sứ Cao Miên. Đồng thời, cả con gái và con rể quan Tuần phủ đều theo đạo Công giáo, trong đó người con gái có tên thánh là Ursula, con rể tên thánh là Ignatio…

Cũng theo sử sách và gia phả họ Trần Đức thì Khám lý Trần Đức Hòa có người con trai tên là Trần Đức Nghi, làm Phó Đề đốc phủ Quy Ninh. Còn theo Borri thì người con của quan Tuần phủ Quy Nhơn (không phải Trần Đức Hòa) từng giữ chức Hiệp Trấn. Sau khi quan Tuần phủ Quy Nhơn qua đời vào năm 1619 thì người con được cử giữ chức Phó Tuần phủ và sau 3 năm thì thay cha giữ chức Tuần phủ Quy Nhơn…

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null