Dù không phải người Jrai, song bởi lớn lên giữa vùng đất Gia Lai đại ngàn, được gần gũi, lắng nghe và chứng kiến đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số Jrai nên ông Lâm dần nuôi dưỡng tình yêu đặc biệt với văn hóa nơi này.
Ông Lâm từng theo học chuyên ngành dân tộc học tại Trường Đại học Văn khoa Huế (nay là Trường Đại học Khoa học Huế) rồi tiếp tục học lên thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Nhân chủng xã hội học và Dân tộc học.
Qua nhiều chuyến đi điền dã, ông nhận thấy các hiện vật gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt và nghi lễ cúng tế của người Jrai đang dần bị mai một. Điều ấy đã thôi thúc ông bắt đầu sưu tầm chúng nhằm lưu giữ những nét văn hóa độc đáo của Jrai.
Theo đó, từ năm 1988 đến nay, ông đã dành thời gian miệt mài sưu tầm, lưu giữ hơn 200 hiện vật lớn nhỏ, từ những vật dụng sinh hoạt đời thường đến đồ dùng trong nghi lễ. Tất cả được ông sắp xếp ngay ngắn trong căn nhà của mình, biến nơi đây thành chốn gìn giữ ký ức văn hóa của dân tộc Jrai.
Căn nhà của ông Lâm giờ đây như một "bảo tàng Jrai thu nhỏ", chứa đựng hàng trăm hiện vật, từ rìu đồng, ghè rượu cần, vòng đeo cổ, chiêng, gùi, nồi đất đến cả chiếc gông đeo của tù nhân thời sơ khai có tuổi đời trăm năm. Tất cả được ông sắp xếp gọn gàng trên kệ gỗ, treo ngay ngắn trên tường, như thể đang chờ kể lại câu chuyện của mình.
Theo ông Lâm, muốn hiểu về nền văn hóa, dù là của một gia đình hay một cộng đồng thì hãy nhìn vào “góc nhà, túi rác” của họ. Bởi lẽ, “trong đó sẽ hiện rõ họ ăn gì, uống gì, sinh hoạt ra sao”. Cũng từ quan niệm ấy, ông đã rong ruổi khắp nơi, ghé thăm từng ngôi nhà, có khi xin lại những món người ta bỏ đi, có khi mua lại những thứ họ rao bán để "làm giàu" cho bộ sưu tập của mình.
Ông Lâm bộc bạch, việc sưu tầm hiện vật chỉ là một phần nhỏ, điều lớn hơn mà ông muốn là gìn giữ và ghi chép lại văn hóa truyền khẩu của đồng bào Jrai. Đó là những bài hát, câu chuyện kể dân gian của người Jrai qua từng hiện vật.
“Sau này khi nghiên cứu văn học dân gian Tây Nguyên, PGS.TS. Võ Quang Nhơn-Nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam-đã hệ thống hóa và xác định rằng, những bài hát cùng các câu chuyện kể truyền miệng ấy chính là dạng sử thi Tây Nguyên-một thể loại văn học dân gian đặc sắc, phản ánh sâu sắc tâm hồn và văn hóa của các dân tộc nơi đây”-ông Lâm thông tin.
Đưa chúng tôi tham quan “bảo tàng Jrai thu nhỏ” của mình, ông Lâm chậm rãi giới thiệu từng món đồ: Đây là chiếc rìu đồng hơn trăm tuổi từng theo chân người Jrai mở nương, dựng làng; đó là những chiếc ghè đất in dấu thời gian, từng hiện diện trong lễ hội, bên tiếng chiêng và điệu múa đêm hội làng; còn này là chiếc còng sắt hoen gỉ và những chiếc gùi mây bạc màu...
Không chỉ lưu giữ hiện vật, ông Lâm còn ghi nhớ và thuật lại những câu chuyện gắn với phong tục của người Jrai. Giọng kể của ông khi trầm lắng, lúc hóm hỉnh, bởi với ông, văn hóa Jrai không chỉ là sự trang nghiêm của nghi lễ cầu mưa, là nỗi buồn của lễ bỏ mả, mà còn có cả tiếng cười, sự hồn hậu trong những câu chuyện đời thường.
Mỗi món đồ, qua lời kể của ông đều khiến người nghe cảm nhận rõ rằng chúng không đơn thuần là hiện vật mà chứa cả mảnh ký ức văn hóa đầy thú vị.
Suốt mấy chục năm qua, ông Lâm vẫn miệt mài rảo bước trên hành trình tìm hiểu văn hóa đồng bào Jrai, cẩn trọng ghi chép, nghiên cứu, rồi viết thành sách. Dù đã có vài cuốn sách đã xuất bản, song ông rất kiên định: “Vẫn chưa xong, chưa trọn bộ, bởi hành trình ấy còn dài, kho tàng văn hóa ấy càng tìm càng thấy sâu...”. Rồi bất chợt, ông chạnh lòng trăn trở: “Tôi chỉ giữ được chừng này thôi. Mai này, tôi già đi, rồi chết, chẳng biết còn ai giữ nữa?”.
Ông Lâm cũng từng nghĩ sẽ trao tặng bộ sưu tập của mình để có thể bảo tồn chúng, nhưng rồi ông ngần ngại: “Giữ ở nhà thì sợ mai sau không ai biết quý, rồi thất lạc. Song, để tìm được một người tận tâm giữ những câu chuyện gắn liền với từng đồ vật này thì lại không dễ chút nào”.