Nước mắt Tà Dơ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Khi đặt chân đến Tà Dơ tôi thật sự đắng lòng trước những cảnh đời khốn khổ ngoài sức tưởng tượng.
Những túp lều tạm bợ ở xóm Việt kiều Campuchia ẢNH: QUANG VIÊN
Những túp lều tạm bợ ở xóm Việt kiều Campuchia ẢNH: QUANG VIÊN
Mùa mưa này tôi đến Tà Dơ. Xóm Việt kiều Campuchia nằm heo hút ở cuối đoạn đường đất đỏ, ngay mép bờ hồ Dầu Tiếng thuộc xã Tân Thành, H.Tân Châu, Tây Ninh. Cơn mưa bất chợt đổ xuống, Tà Dơ càng thêm hắt hiu.
Cám cảnh an cư
Nghe nói xóm Việt kiều Campuchia này nghèo lắm, nhưng trước khi đến đây, tôi không thể hình dung họ nghèo mà có lẽ dùng câu “không bút mực nào tả hết” là đúng nhất. Những em bé tóc cháy vàng, da đen nhẻm, miệng cười toe, đón chúng tôi ngay từ ngoài đường. Đó là thói quen của chúng, vì chúng nghĩ người lạ đến sẽ có quà. Chúng tranh nhau dắt tôi về nhà. Gọi là nhà nhưng thực chất đó là những túp lều tạm bợ, xiêu vẹo, rách nát, diện tích chỉ chừng 5 - 10 m2. Cừ tràm được dùng để chống đỡ và nâng túp lều lên cao như nhà sàn để phòng khi nước dâng cao.
Túp lều đầu tiên tôi đến là của cụ Lê Thị Hoàng (70 tuổi) chừng 5 m2. Ngồi trên những căn lều tạm bợ này, nghe từng cơn gió từ hồ Dầu Tiếng thốc vào, tôi thấy rờn rợn trong người. Đây chỉ mới là những cơn gió lành mà những căn lều kia còn rung bần bật, nếu gặp gió dữ, lốc xoáy thì làm sao? Cụ Hoàng bảo: “Gió thì có nhằm nhò gì chú. Dân ở đây khổ nhứt là nước lớn. Nhà nào có ghe hay chuẩn bị được bè ghép từ những thùng xốp thì lên đó mà vô bờ. Ai không có bè, có ghe thì bơi, thì lội”. Ngồi trong căn lều xiêu vẹo, chị Nguyễn Thị Ly (35 tuổi) dõi đôi mắt buồn xa xăm, tâm sự: “Chồng em đi làm thợ hồ mấy tuần rồi chưa về. Ổng ráng kiếm tiền về mua cây sửa lại nhà”. Còn vợ chồng chị Xuyến, anh Chiến và hai đứa con sống trong chiếc thuyền gỗ cũ nát được kéo lên bờ rồi chằng trên, chống dưới, che quanh... thành nhà.
Căn lều này là nơi sinh sống của 8 người trong gia đình
Căn lều này là nơi sinh sống của 8 người trong gia đình
Nếu không có tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ, thì cuộc sống của người dân xóm Việt kiều Campuchia chỉ cách trung tâm xã chừng hơn 5 km này hắt hiu như ở rừng sâu, núi thẳm. Cả xóm tìm đỏ mắt mới thấy vài chiếc ti vi từ thời “cổ lai hy”. Điện cũng le lói. Nhiều người không dám xài điện vì chẳng có tiền để trả. Với họ, có điện thắp sáng vừa chiếc bóng đèn, nấu nồi cơm và cắm chiếc quạt và trả nổi 150.000 tiền điện mỗi tháng là sang lắm rồi. Trưởng ấp Tà Dơ, Nguyễn Văn Tha (tên thường gọi là Mười Tha) cho biết: “Chỉ có mười mấy hộ được cung cấp điện, những hộ còn lại muốn sử dụng điện thì câu ké. Nước sinh hoạt cho cả xóm được bơm từ giếng khoan lên chiếc bồn chứa”. Nhưng có như vậy cũng sướng lắm rồi. Trước đây, dân trong xóm xài toàn nước hồ. Thậm chí, ngay bây giờ vẫn còn nhiều người tắm giặt... bằng nước hồ tự nhiên đó. Điều đáng ngại là hồ cũng là nhà vệ sinh “công cộng” của rất nhiều hộ dân.
Xót lòng chuyện lạc nghiệp
Hai mẹ con người phụ nữ này người thì chồng mất, người thì chồng bỏ đi
Hai mẹ con người phụ nữ này người thì chồng mất, người thì chồng bỏ đi
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hồng, Phó công an xã Tân Thành, trước đây xóm Việt kiều này có 301 hộ. Nhưng đến nay, 175 hộ đã được chính quyền di dời đến khu tái định cư Đồng Kèn 2, có cuộc sống ổn định hơn. Số hộ còn lại bám trụ ấp Tà Dơ thì cuộc sống nghèo khó, bấp bênh.
Hầu hết những người về ấp Tà Dơ đã từng sống tại Biển Hồ Campuchia, quen nghề chài lưới. Song khi về đây, nhiều người đã trắng tay không mua nổi chiếc ghe 5 - 10 triệu đồng để làm nghề. “Những năm gần đây tôm cá ở hồ Dầu Tiếng cũng cạn kiệt không dễ đánh bắt”, anh Mười Tha chia sẻ. Tôi hỏi mấy người có nghề đánh cá ở đây cũng đều nhận được cái thở dài ngao ngán. Họ cho biết, đi một đêm trúng quả thì được chừng trên dưới 100.000 đồng. Còn chuyện về tay không cũng là thường. Có khi còn đi tong một tấm lưới vì cây dưới lòng hồ. Ngoài nghề chài lưới, những người đàn ông còn khỏe mạnh đi làm thợ hồ, nhổ khoai mì, cạo mủ cao su... ở các địa phương khác, nhưng thu nhập thấp, bấp bênh. Một số người cùng trẻ em đi bán vé số. Bố con anh Chiến, mỗi ngày đi từ sáng đến tối mịt mới về, bán được vài trăm tấm vé số là vui như tết rồi.
Cụ Hoàng ngậm ngùi kể: “Tôi sống ở Biển Hồ, Campuchia từ nhỏ tới lớn. Chồng chết, phải sống nhờ vào những người cháu. Đến năm 2016, đứa cháu đánh cá trên Biển Hồ bị bắt và đi tù. Bán hết gia sản chuộc được cháu ra, 7 bà cháu về đây vì ở lại Campuchia thì không còn mần ăn gì được nữa. Về VN, đứa cháu lớn nhất đi làm mướn, nhưng thu nhập chẳng thấm tháp gì nên phải chạy cơm từng bữa”.
Chiếc ghe cũ nát trở thành nhà của chị Xuyến
Chiếc ghe cũ nát trở thành nhà của chị Xuyến
Khi tôi còn ngồi ở nhà cụ Hoàng thì nhiều người kéo đến để trút bầu tâm sự. Ai cũng bắt đầu bằng một câu “khổ quá chú ơi” và rơm rớm nước mắt. Ông Bùi Văn Hoành cùng gia đình sống ở Biển Hồ từ năm 1975, đến năm 2017 dắt díu về Tà Dơ tìm kế sinh nhai. Nhưng ông Hoành bị tai biến 5 năm rồi nên không làm gì được. Bà Ban, vợ ông Hoành nghẹn ngào: “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa chú ơi! Ổng bệnh, tui sức khỏe yếu, lại phải chăm cháu nên không làm được gì hết. Bây giờ chỉ biết sống trông chờ vào cứu trợ”.
Nhưng chuyện sống nhờ tiền cứu trợ tôi nghe kể lại càng thêm đắng chát. Hỏi 10 người thì hơn 11 người “níu áo” tôi để giãi bày: Trước đây nhiều tổ chức, cá nhân đến trực tiếp phát quà thì bà con khá “dễ thở”. Từ khi chính quyền buộc quà từ thiện phải quy về một mối là UBND huyện để người ta “điều phối” thì quà đến tay của người dân không còn được so với trước. Họ còn kể với tôi, có những nhà hảo tâm đến thẳng cho tiền mà vừa phát vừa run vì sợ bị chính quyền làm khó dễ. Tôi lên tận xã hỏi trưởng công xã là đại úy Ngô Minh Đắc chuyện này. Anh trả lời đại ý: Các tổ chức từ thiện đến phát quà mà không thông qua chính quyền thì biết họ cho cái gì và món quà đó có đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm hay không... Vâng, cứ coi là anh nói có lý, nhưng không lẽ tiền thì cũng cần “đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm”? (còn tiếp)
Quang Viên (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null