Nơi quần tụ điều tín nghĩa - kỳ 1: Lại mờ nhòe tiếp một địa chỉ đỏ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Thời điểm mùa xuân 1947, Cụ Hồ bí mật đi Thanh Hóa. Có sự đồn thổi là Cụ chuẩn bị cho di dời Chính phủ lâm thời non trẻ vào An toàn khu xứ Thanh. Chuyện ấy không có! Nhưng Cụ Hồ đã trù liệu cho một bộ phận của cơ quan Văn hóa kháng chiến cùng nhiều văn nghệ sĩ vào Quần Tín.

Cái tên Quần Tín (nơi quần tụ điều tín nghĩa) là do vua Lê Thái Tổ ban cho làng, nay thuộc xã Thọ Cường, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Thuở nằm gai nếm mật gian khó của cuộc kháng chiến, quân của Bình Định Vương Lê Lợi bị giặc Minh truy đuổi đã phải dạt vào cái ngôi làng hẻo lánh ở vùng Triệu Sơn gần núi Nưa. Được dân làng che chở đùm bọc. Lại được thần thành hoàng làng linh ứng mách cho kế sách mật phục cự giặc.

Lớp nhà văn kháng chiến ở Quần Tín năm 1948. Tranh: T.L

Lớp nhà văn kháng chiến ở Quần Tín năm 1948. Tranh: T.L

Sau thời điểm Toàn quốc kháng chiến, vùng tự do Thanh Hóa trong đó có Quần Tín như được âm phò dương trợ trở thành nơi đắc địa - An toàn khu (ATK) của một cơ quan văn hóa.

Tôi lại ghé Quần Tín. Chẳng dám gọi là về vì thứ hậu sinh như mình không có may mắn can dự vào việc đêm nằm năm ở thuở cuối những năm 40 ấy…

Được trọn buổi bám theo chị Nguyễn Thị Thanh, đã 2 khóa là huyện ủy viên, Bí thư Đảng ủy xã Thọ Cường có thôn Quần Tín. Giờ chị đương luân chuyển tiếp đảm chức Bí thư Đảng ủy một xã lớn bên cạnh Thọ Cường là xã Thọ Tiến của huyện Triệu Sơn.

Những lối đi cùng những ngôi nhà mà chị từng làu thuộc của Quần Tín như khơi lại một quá vãng ấm áp thương mến.

Bám theo chị mỏi chân nhưng tôi không tới hết được hàng chục gia đình Quần Tín có văn nghệ sĩ kháng chiến và gia đình họ ở. Lâu thì liên tục suốt 8 năm từ 1947 - 1954. Mau thì một vài năm. Nhà thì cái còn cái mất. Nhà cũ đã phá xây theo lối mới. Những nhà mà Hải Triều, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Bùi Huy Phồn, gia đình nhà văn Vũ Ngọc Phan,Trương Tửu, Trần Dần, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Lạp, Trần Hữu Thung, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi từng ở… Chị Thanh vanh vách, dân Quần Tín thuở ấy có 70 nóc nhà. Vậy mà có tới 35 hộ luôn có các văn nghệ sĩ tá túc.

Quần Tín, nơi quần tụ các nhà văn, nghệ sĩ tiêu biểu thời ấy đã bầu nên một sự kiện. Ngày 20/1/1949, Hội Văn nghệ Việt Nam ra đời thì ngày 4/8/1949, Hội Văn nghệ Khu 4 được thành lập tại đình làng Quần Tín. Rồi chương trình đại học văn hóa khóa 1 và khóa 2 được mở tại Quần Tín do thầy Đặng Thai Mai làm hiệu trưởng. Ngôi đình làng, khu đền cổ và trường đồng ấu Tổng Tam Lộng nhường địa điểm cho lớp học của thầy Đặng Thai Mai, với các thầy giáo Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Hải Triều,... Đồng chí Trường Chinh lặn lội vào Quần Tín lên lớp thuyết trình về quan điểm văn nghệ của Đảng. Và có buổi, ông tướng yêu văn nghệ văn võ song toàn Nguyễn Sơn cũng được mời lên lớp sang sảng suốt 12 tiếng đồng hồ liên tục về Truyện Kiều...

Ngạc nhiên, các yếu nhân như Nguyễn Mạnh Cầm, Phan Diễn… cũng đã có vài năm trú ngụ ở Quần Tín. Quần Tín cũng rộng lòng với khách xa. Chị Thanh dẫn tôi qua hoặc chỉ cho dấu tích của mấy ngôi nhà đã từng đón vợ chồng Hoàng thân Xu-pha-nu-vông về ở khá lâu. Lâu hơn là những vị hàng binh Âu Phi của quân đội Pháp theo Việt Minh mà Cụ Hồ khi ấy gọi là những người Việt Nam mới. Họ đã ở Quần Tín vài năm, cũng tham gia tự túc lương thực cày bừa cấy hái với dân làng Quần Tín.

Những sải chân hăm hở theo vị Bí thư Đảng ủy ấy đã khiến tôi tò mò lật giở thêm hồi ức của nhà văn Vũ Ngọc Phan. Gia đình nhà văn Vũ Ngọc Phan và nhiều văn nghệ sĩ khác theo lộ trình tản cư Phủ Lý Hà Nam theo sông Đáy nhập với sông Mã vào đất Thanh Hóa. Qua Nam Cai đập Bàn Thạch rồi đến được địa danh Quần Tín của đất Thọ Xuân là cả một tất tả nhiêu khê.

Đoàn văn hóa kháng chiến Liên khu IV chọn Quần Tín là nơi ở của các gia đình văn nghệ sĩ.

*

* *

“Chúng tôi có đến 20 gia đình.

Quần Tín là nơi tụ hợp hầu hết anh chị em văn nghệ sĩ kháng chiến tản cư vô Thanh. Làng có nước giếng xây nơi giếng nứt nước rất trong anh em VNS thường ra đây tắm giặt. Đầu làng có khu rừng cây cối um tùm. Nhưng loài chim như vẹt, cu xanh ngỗng trời bay về.

Đoàn văn hóa mở được 3 lớp Bổ túc văn hóa cho cán bộ tuyên truyền trẻ ở các tỉnh về…” (trích hồi ký Vũ Ngọc Phan).

Lớp nhà văn kháng chiến ở Quần Tín năm 1948. Tranh: T.L

Lớp nhà văn kháng chiến ở Quần Tín năm 1948. Tranh: T.L

Nữ sĩ Hằng Phương - người vợ của cụ Vũ Ngọc Phan có đóng một cuốn vở đề ngoài bìa, Vở kỷ niệm về Trường văn hóa Quần Tín.

Các cây viết Bùi Hiển, Trần Hữu Thung, Xuân Hoàng và mấy bạn trẻ có ghi thơ của mình trong vở. Lưu Trọng Lư rẽ vào Quần Tín, Nguyễn Đình Thi ở Việt Bắc về đều có ghi thơ trong vở. Nguyễn Đình Thi ghi hai bài Đường núi và Đêm mít tinh. Dưới có mấy dòng “Chép tặng anh chị Phan, nhớ những quả cam hôm ốm ở Quần Tín”.

Đến thăm Trường Văn hóa, Nguyễn Đình Thi ngồi trên bàn học trò hát bài Người Hà Nội của anh với chất giọng hùng mạnh rung chuyển cả bàn ghế đầy sức hấp dẫn làm nhiều học sinh say mê nhất là nữ sinh.

Bí thư Đảng ủy Nguyễn Thị Thanh (phải) bên Giếng cổ.

Bí thư Đảng ủy Nguyễn Thị Thanh (phải) bên Giếng cổ.

Nguyễn Đình Thi có cái áo nâu rách tay. Anh nhờ Hằng Phương vá hộ, sau lại ngại không đưa.

Hằng Phương sai cô con gái nhỏ đưa mấy câu thơ cho Thi:

Thi ơi quần áo rách đâu?

Để tôi vá víu để mau lên đường

Rách lành đùm bọc

văn chương

Chỉ kim kháng chiến chí nhường súng gươm

Ra về y phục tinh tươm

Nhớ chăng Quần Tín một phương xa vời?

Quần Tín năm 1948 - Hằng Phương.

Trần Hữu Thung có chép bài Cò trắng phát thanh trong vở kỷ niệm.

Bây giờ tặng nhau tác phẩm của mình là thường. Nhưng ngày gian khổ kháng chiến ấy tặng nhau mấy câu thơ sao mà quý?

“Mấy năm đầu ở Quần Tín, Chính phủ cấp cho gia đình cán bộ văn nghệ một khoản sinh hoạt phí đủ chi dùng trong vài tháng. Từ năm 1950, các gia đình đều phải tự túc. Mỗi nhà được cấp một con trâu hay bò, phải thuê ruộng làng tự cày cấy để có lương thực.

Bắt đầu những ngày khó khăn lại khó khăn hơn. Một số anh chị em bùng xuống Cầu Bố, Rừng Thông buôn bán. Một số khác dinh-tê (rentrer: trở lại quay lại, tức vào thành Hà Nội).

Chúng tôi nhờ nông hội cho một số ruộng khoảng gần một mẫu và nhờ chỉ bảo cho việc cày bừa. Buổi đầu cho mượn nông cụ cày, bừa. Ruộng thì của địa chủ phú nông. Họ cũng sớm nhận ra nhiều ruộng đất chả phải là hay ho gì nên muốn các hộ cán bộ mượn nhiều hơn. Nhưng chúng tôi ngại không dám nhận vì sợ làm không xuể!

Chúng tôi có mấy đứa con đã lớn. Hai đứa con gái lớn tập đi cấy chỉ ít hôm đã thạo. Hai thằng lớn gồng gánh vai rụt lại.

Chúng tôi được cấp một con bò. Do thiếu kinh nghiệm chúng tôi hăm hở chọn một con bò béo. Hóa ra là giống bò thịt không biết cày. Đợi mãi chưa đổi được con khác. Đành bán bò mua trâu. Nhưng lại vớ phải con dữ quá. Nhiều buổi cày nó hung hăng dứt đứt dây nhợ lồng lên bờ. Đành phải đem bán và nhờ kiếm con khác hiền hơn. (trích hồi ký Vũ Ngọc Phan).

Hai năm làm lụng tất tả, trong nhật ký bà Hằng Phương ghi “Về tiêu pha mấy năm nay thấy công việc làm ruộng đã đỡ được một phần chi tiêu trong gia đình” (Nhật ký 25-7-1953).

Còn ông Vũ Ngọc Phan thì kể “Tôi bị đau dạ dày rất nặng thắt hẹp môn vị vào thời kỳ cuối. Đau gần 20 năm đã 5 năm nay lại không có thuốc nên bệnh càng nặng. Tôi được cáng xuống Trường Y sĩ ở Cổ Định để nhờ BS Hoàng Đình Cầu, Hiệu trưởng Trường mổ cho.

Chuyện thì dài. May khi ấy bộ đội sư 308 đóng quân ở Quần Tín có thứ chiến lợi phẩm là máu khô và chỉ khâu ruột mèo (cat gut). Có lẽ nể nhà văn Vũ Ngọc Phan nên họ đã tặng máu khô và chỉ khâu nên GS Hoàng Đình Cầu mới dám mổ”.

Trong hồi ký của mình, nhà văn Vũ Ngọc Phan đã tường thuật lại cuộc giải phẫu lạ lùng ấy.

“...Tôi nằm trên một cánh cửa đình kê gạch. Phòng mổ là gian đình trên căng mảnh vải dù không có cửa. BS Cầu không có găng tay. Anh phải cắt móng tay rửa xà phòng rồi lại rửa lại bằng cồn. Mổ chỉ có thuốc tê không có thuốc mê.

Đa phần là học sinh quần áo nâu xán vào xem vì rất hiếm ca mổ như này. BS Cầu cứ phải giơ hai tay đỏ lòm lên vì sợ họ chạm phải. Mọi hành động của BS tôi đều trông thấy. Tôi đau quá thở mạnh. BS Cầu phải dỗ “Anh chịu khó thở nhẹ một chút không có tôi khâu ruột với da bụng thì gay”.

Bọn trẻ leo trên tường kêu ầm lên “Ơ ruột và dạ dầy ông này xanh lè”. Tôi nghe thấy thế hoảng quá lịm đi không biết trời đất gì nữa.

May mắn ca mổ cũng kết thúc, tôi được tiếp máu bằng cách đổ chai máu khô vào hai cái bát hòa tan ra và hai người liên tục tiêm vào tĩnh mạch.

Tay nghề phẫu thuật của BS Cầu quả tài tình. Tôi đã qua được…”.

Cũng cần phải nói thêm nhà văn Vũ Ngọc Phan mổ cũng một ngày với một bác nông dân Quần Tín làm nghề đánh giậm.

Tối hôm trước ngày mổ, bác ta nghĩ rằng mổ thì chín phần chết một phần sống nên bác đi đánh chén một bữa thịt chó no say rồi lăn ra ngủ. Sáng hôm sau rửa dạ dày đến lần thứ hai mà bác ta còn sặc sụa mùi rượu và nôn ra toàn bánh cuốn. Lại phải rửa dạ dày lần thứ 3.

“Tay nghề phẫu thuật của BS Cầu quả tài tình. Tôi đã qua được…

Rồi đã 35 năm trôi qua không đau lại một lần nào. Rất sướng là được ăn dưa muối cà muối mà 20 năm trước tôi không dám ăn. Mổ xong được một năm tôi đi Việt Bắc mất 16 ngày đêm lại đèo trên vai cái ba lô 7 kí lô”.

Trong hồi ức sơ lược dạng gạch đầu dòng của mình, cũng trĩu nặng những dòng về người con trai Hồng Côn nhớn nhao đẹp đẽ của ông bà Vũ Ngọc Phan - Hằng Phương đột ngột mất vì bạo bệnh. Phần mộ đâu như vẫn lưu lại đất Quần Tín này?

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null