Những chiếc đèn dầu kỳ diệu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Đèn dầu mà tôi muốn nhắc đến ở đây là loại đèn do các thành viên đội công tác vũ trang ở K8 ngày trước (An Khê ngày nay) tự chế hồi những năm kháng chiến chống Mỹ. Dù là tự chế nhưng những chiếc đèn này rất đa dạng về “chủng loại” và phong phú về hình dáng, màu sắc, kích cỡ. Tất nhiên về “nguyên lý” thì không khác mấy đèn dầu hỏa mà dân ta thường gọi là đèn Hoa Kỳ. Đèn Hoa Kỳ theo chân những nhà buôn dầu hỏa vào Việt Nam từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Người Việt tiếp thu và sử dụng nó, dần thay thế cho các loại đèn đốt trên dĩa sứ bằng các loại dầu thực vật và đèn cầy (đèn dầu cá).
Khác với vùng hậu cứ trong rừng già, nơi xa vùng địch chiếm, có điều kiện ngụy trang che mắt các loại máy bay trinh sát của Mỹ, các đội công tác vũ trang chúng tôi luôn cận kề với vùng địch hậu. Ngày đêm, chúng tôi gần gũi với bà con trong các ấp chiến lược, tuyên truyền, vận động nhân dân giác ngộ cách mạng, gây dựng phong trào, xây dựng cơ sở mật, cơ sở nội tuyến, diệt những tên ác ôn, mật báo, tổ chức phục kích đánh những trận nhỏ, lẻ. Mọi sinh hoạt của các đội công tác vũ trang đều diễn ra ngay tại những cánh rừng, những con suối cận bìa làng, thôn, ấp. Vì vậy, việc giữ gìn bí mật, bảo đảm an toàn cho cán bộ, chiến sĩ là vô cùng quan trọng. Khẩu hiệu “đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không ra tiếng” được thực hiện triệt để.
Có một việc không nằm trong “khẩu hiệu”, nhưng đó lại là nhu cầu tối thiểu của chúng tôi ngày ấy: ánh sáng. Đêm về, những hôm không có nhiệm vụ, được nghỉ ngơi thì chúng tôi tổ chức sinh hoạt tập thể, trong đó viết nhật ký và đọc sách báo là những nhu cầu không thể thiếu. Sách báo đến với chúng tôi từ 2 nguồn, một là từ hậu cứ chuyển ra, chủ yếu là các loại sách báo có xuất xứ từ miền Bắc, dù “cũ người” nhưng “mới ta”; nguồn nữa gần như rất mới, rất kịp thời là sách báo do các cơ sở mật của cách mạng chuyển ra từ vùng địch tạm chiếm. Đèn dầu hỏa là thứ ánh sáng vô cùng khiêm tốn nhưng giúp chúng tôi có thể đọc sách. Song loại đèn Hoa Kỳ như nói trên thì không thể cơ động theo chúng tôi mỗi ngày đêm được. Khắc phục cái khó đó, cái khôn ló ra. Những chiếc đèn dầu tự chế ra đời.
Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet
Bất kỳ loại chai, lọ gì đẹp, gọn nhẹ và có nắp vặn chắc chắn thì đều có thể chế thành đèn dầu. Tuy thế, chỉ có 2 loại vật liệu sau đây là tốt nhất, đẹp nhất, dễ làm nhất. Đó là lọ dầu ancol, loại nhỏ bằng viên pin đại, tròn, bằng thủy tinh trong, cao chừng trên 10 cm. Và, có lẽ nhiều người còn nhớ, ngày xưa khi đồ dùng bằng nhựa chưa lên ngôi thì ruột cây bút bi (thường gọi là bút bấm, bút bic) được làm bằng đồng hoặc sắt không rỉ cũng được tận dụng để làm chiếc đèn dầu theo cách này. Khi đã có lọ ancol vừa ý và ruột của cây bút bi đã dùng hết mực, chỉ cần tạo ra một vật chặn giữa miệng lọ bằng chất không nóng chảy làm giá đỡ cho ruột bút (vòi của đèn) khi dùng mở nắp lọ, vòi tim (bấc) đèn bật lên, chỉ việc châm lửa là phát sáng không khác gì đèn Hoa Kỳ; khi không dùng, đậy và vặn nắp lại thì vòi tim đèn ép xuống sát miệng lọ. Dầu hỏa không thể rỉ ra từ “lọ đèn” và vì thế nó cơ động theo người dùng bất cứ nơi đâu trong chiếc ba lô con cóc, cho ánh sáng bất kỳ khi nào cần dùng đến, nhất là khi viết và đọc ở tầm nhìn gần, đảm bảo giữ bí mật. Khi ẩn nấp trong hầm trú ẩn thì loại đèn kỳ diệu này tỏa ánh sáng càng diệu kỳ.
Đặc biệt, người khéo tay có thể “trang trí” cho chiếc đèn tùy theo ý thích của mỗi người. Các cô, các chị còn may cho nó “chiếc áo” bằng những loại vải đẹp, mềm, bền bao bọc cẩn thận, phòng khi chủ nhân sơ ý làm đèn rơi để đèn không vỡ, dầu không đổ... Bây giờ, thỉnh thoảng đến tham quan các bảo tàng chiến tranh, tôi cũng thấy có trưng bày những chiếc đèn dầu kỳ diệu ấy. Tuy nhiên, nếu ai đó muốn tìm hiểu kỹ thì những thuyết minh viên khó có thể đáp ứng được bởi họ cũng còn chưa tường tận lắm về những chiếc đèn như thế trong thời chiến.
Ngày nay, khắp đất nước ta từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo xa xôi, hẻo lánh… đều đã có nguồn sáng từ các loại năng lượng. Những loại đèn tự chế của chúng tôi một thời đã lùi về dĩ vãng. Nhưng dù sao, những chiếc đèn dầu kỳ diệu ấy đã từng là công cụ, là người bạn đồng hành chung thủy của những cán bộ, chiến sĩ các đội công tác vũ trang K8 của chúng tôi. Có thể nói, với chúng tôi, những chiếc đèn kỳ diệu ấy là một trong những vật kỷ niệm không thể nào quên.
BÍCH HÀ

Có thể bạn quan tâm

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

(GLO)- Bài thơ "Di vật đời người" của Phạm Đức Long là khúc tưởng niệm thấm đẫm cảm xúc về những người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Họ ngã xuống giữa rừng xanh, để lại những di vật bình dị mà thiêng liêng, là biểu tượng bất tử của một thời tuổi trẻ quên mình vì Tổ quốc...

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.