Mùa rươi, không phải ai cũng biết - Bài 2: Vớt 'lộc', đếm tiền

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Trời tối thẫm, mưa phùn rét buốt. Dưới ánh đèn pin như sao sa, hàng trăm con người bì bõm trên những thửa ruộng nước đã ngập đến bẹn để vớt “lộc trời”.

Không dám rời ruộng

“Rươi mọc rồi!”, một giọng nam trầm ấm hét to. Sau “thông báo” ấy, bà con làng trên xóm dưới ở xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An mang theo đồ nghề gồm vợt, xô, chậu, rổ, rá... ùn ùn kéo nhau ra đồng để vớt “lộc trời”. Mùa rươi bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 11 âm lịch hàng năm nhưng thường mỗi tháng có vài ba ngày rươi nổi nhiều. Bởi vậy, chớp thời cơ, các hộ dân huy động tổng lực ra đồng vớt rươi.

“Rươi thường nổi rộ vào buổi tối hoặc rạng sáng mùng 1, ngày Rằm hoặc thi thoảng nó lên bất kỳ, chẳng theo quy luật nào. Vào thời điểm rươi mọc, chỉ trừ người già và trẻ nhỏ, cả làng tay vợt tay xô, đầu mang đèn pin kéo nhau ra đồng. Cứ gọi là như hội, đèn lấp lóa sáng rực, đông vui lắm”, ông Lê Quang Vinh (52 tuổi, trú xóm 7, xã Châu Nhân) chia sẻ.

“Chiến lợi phẩm” sau một đêm dài lao động

“Chiến lợi phẩm” sau một đêm dài lao động

Dưới ánh đèn pin, những con rươi nhỏ hơn cái đầu đũa phóng loạn xạ như tên lửa trong dòng nước đục. Lão nông lật đật lội qua góc ruộng bên kia, nơi sát mương nước sửa lại cái đáy lưới chờ rươi theo dòng nước chảy chui vào. Ít phút, ông lại mở đáy lưới đổ từng mớ rươi vào xô. Trong ruộng, rươi chui lên mỗi lúc một nhiều. Cái đáy lưới càng lúc càng nhiều rươi hơn. Nhanh tay thu hoạch, ông Vinh cho hay: “Rươi ở Châu Nhân là loài rươi tự nhiên, béo múp, tầm 40 con cân được một lạng. Tính ra mỗi con rươi bé bằng đầu đũa có giá 1.000 đồng. Bởi vậy, dù lội bùn trong giá lạnh hay giữa đêm khuya, bất kỳ lúc nào rươi “mọc”, người dân đều túa ra đồng, còng lưng để vớt “lộc trời”, thậm chí không có thời gian ngẩng mặt lên nhìn ai”.

Rươi sau khi vớt lên, thương lái khắp nơi chạy xe đến tận nhà thu mua với giá từ 400.000 - 500.000 đồng/kg. Sau đó được các nhà buôn chuyển đi tiêu thụ ở các tỉnh, thành trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Rươi sau khi được thu mua sẽ được vào các nhà hàng và chế biến thành các món ăn ngon, giàu chất đạm như mắm rươi, chả rươi, rươi hấp, rươi xào măng…

Ở ruộng bên, chị Nguyễn Thị Trâm (35 tuổi) phấn khởi khi đêm nay rươi “mọc” nhiều hơn mọi hôm. Mùa rươi, vợ chồng chị cùng nhau ra đồng vớt “lộc trời”. Trên thửa ruộng của nhà mình, chị cho biết mỗi đêm rươi lên, ít cũng thu được 5 - 7 kg rươi. Những đêm trời cho, có khi thu về 20 - 30 kg rươi. May mắn hơn, có đêm thu được cả tạ rươi, bỏ túi hàng chục triệu đồng. “Rươi thuộc họ giun đất, thân mềm, phải hết sức cẩn thận, lỡ tay làm rơi xuống đất là nó vỡ luôn. Rươi ở đây hoàn toàn tự nhiên chứ không phải nuôi đâu. Nó vào ruộng nhà ai thì nhà ấy được, nên thu hoạch được nhiều hay ít cũng do may rủi và ruộng lớn hay nhỏ. Dù vớt rươi chỉ là nghề làm thời vụ nhưng lại là nguồn thu nhập chính của gia đình”, chị Trâm bộc bạch.

“Chiến lợi phẩm” sau một đêm dài lao động

“Chiến lợi phẩm” sau một đêm dài lao động

Với những thửa ruộng nằm ven sông Lam, trồng lúa chỉ để lấy gạo sạch khỏi mua, rươi mới là thu nhập chính. Bởi một tạ lúa giá chỉ bằng 1,5 kg rươi. Một đêm đẹp trời, rươi lên nhiều, một sào ruộng cũng thu về bằng một tấn lúa. Thế nhưng, rươi không phải là loài dễ tính. Thửa ruộng nào hễ phun thuốc trừ sâu, trừ cỏ cho lúa thì năm đó, rươi biến mất, không “mọc”. Vì thế, người dân ở đây không ai dám đụng đến thuốc bảo vệ thực vật. Năm nào lũ nhiều, không hạn hán, đất đai nhiều phù sa, màu mỡ thì được mùa rươi và ngược lại. “Cúi suốt mấy tiếng, lưng mỏi nhừ rồi nhưng không dám rời ruộng. Mỗi tháng may ra chỉ có vài ba ngày rươi mọc, nên phải tranh thủ. Rươi thu hoạch đến đâu, thương lái canh trên bờ thu mua đến đó, có thời điểm rươi tăng giá vùn vụt, lên tới 550 nghìn đồng/kg. Tiền tươi thóc thật nên dù mệt, dù rét ai cũng háo hức. Nhà nào gặp may, một đêm thu gần chục triệu”, chị Trâm thoăn thoắt vớt rươi đổ vào chiếc xô sơn, tâm sự.

Nghĩ cách nuôi “rồng đất”

Hàng trăm người dân xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An chong đèn chờ vớt “lộc trời”

Hàng trăm người dân xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An chong đèn chờ vớt “lộc trời”

Rươi là sản vật có dinh dưỡng cao, được dân gian gọi là “rồng đất”. Để thu hoạch, người dân thường đào lạch để dẫn nước từ ngoài sông vào ruộng. Khi rươi bắt đầu nổi lên thì tháo nước ra kênh, chúng xuôi theo dòng chảy, tập trung về đáy lưới ở góc ruộng và bà con chỉ việc dùng vợt để vớt lên. Theo bà con nơi đây, rươi là loài sinh sôi tự nhiên “trời cho ai người ấy hưởng”. Dù là “lộc trời ban” nhưng người dân cũng phải có bí kíp để loài rươi sinh trưởng. “Đồng đất ở đây sản xuất 2 vụ lúa mỗi năm. Để đất sạch nuôi rươi, chúng tôi không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho lúa. Sau khi thu hoạch xong, đất được cày bừa thật kỹ để có độ tơi xốp, bón phân hữu cơ cho rươi sinh sống. Vào những ngày trước và sau ngày mùng Một và Rằm, cả làng ra đồng chờ nước xuống, rươi nổi lên để vớt. Tuy nhiên, cũng hên xui. Hai thửa ruộng cạnh nhau nhưng nhà này thu hoạch hàng yến, nhà khác thu hoạch được vài cân một mùa cũng là chuyện bình thường”, ông Trịnh Xuân Đào, người gắn bó hơn 20 năm với đồng ruộng Châu Nhân chia sẻ.

Ông Phan Đình Hoàn, Phó Chủ tịch UBND xã Châu Nhân cho biết, mỗi năm, toàn xã thu về khoảng trên dưới 5 tấn rươi. Vào mùa rộ, thương lái đưa cả ô tô về mua rươi đi tiêu thụ. Lý do đặc sản rươi của xã được nhà hàng ưa chuộng, thương lái săn lùng vì giá trị dinh dưỡng cao và được nuôi tự nhiên. Thực tế, mỗi sào ruộng (500m2) nếu trồng lúa, sau khi thu hoạch, trừ các loại chi phí, người dân chỉ lãi chưa đến 1 triệu đồng. Trong khi đó, thu hoạch từ rươi có thể lên tới hàng chục triệu đồng cho một mùa kéo dài hơn 3 tháng, thậm chí, có trường hợp thu được cả tấn rươi. Bởi vậy, dù là công việc mang tính thời vụ nhưng đây là nguồn thu nhập chính của các hộ có ruộng rươi.

Người dân dầm mình trong nước lạnh để vớt rươi

Người dân dầm mình trong nước lạnh để vớt rươi

“Địa phương cũng nhận thấy tiềm năng kinh tế từ con rươi so với các loại cây trồng, vật nuôi khác. Trong kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chúng tôi đã có ý tưởng hướng tới chuyên canh loài sản vật có giá trị kinh tế lớn này. Tuy nhiên, cần phải nhờ các chuyên gia, các nhà khoa học nghiên cứu tính khả thi của việc nuôi rươi. Vì lâu nay chúng chỉ sống tự nhiên và biến mất nếu ruộng đất ô nhiễm hoặc có chất hóa học. Trong khi chờ đợi có phương án nuôi trồng cụ thể, hiệu quả thì xã giao khoán ruộng cho người dân. Đồng thời hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cho bà con để phát huy hiệu quả nhất nguồn lợi thủy sản này”, ông Hoàn cho hay.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null