Mặn hơn muối…

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Nắng 40 độ C tưởng như vắt kiệt sức người, nhưng với diêm dân đó là lúc họ ra đồng ruộng, từng hạt muối được chắt lọc công phu xen lẫn những giọt mồ hôi chát mặn. Với họ, nắng chính là đặc ân mà thiên nhiên đã ban tặng để vụ muối thêm bội thu.

Càng nắng càng mừng

12 giờ trưa, trời nắng hoa mắt, ông Đào Văn Hồng (SN 1965, trú xóm 4, xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) cùng vợ ra đồng muối. Ông đội chiếc khăn tay vắt qua đầu, vừa chống nắng, vừa lau mồ hôi. Vợ ông, bà Trần Thị Lan (SN 1967) đội nón, bịt hai ba lớp khẩu trang, khăn kín mít. Giữa nắng nóng, gió thổi rát ràn rạt, khuôn mặt lão diêm dân đen bóng. Mồ hôi ướt đẫm, vừa nhỏ xuống đã mất hút vào ruộng cát.

“Nghề muối vất vả lắm. Nếu chăm chỉ, nghề này cũng giúp diêm dân có thêm đồng ra đồng vào, tuy không dư dả nhưng cũng đủ để trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, đặc thù của nghề là làm giữa trời nắng. Nắng càng to, càng gắt, dân chúng tôi càng mừng, hạt muối làm ra cũng vì thế mà đẹp, mặn mòi và trắng tinh khôi”, ông Hồng chia sẻ.

Diêm dân xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tranh thủ trời nắng để sản xuất muối

Diêm dân xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tranh thủ trời nắng để sản xuất muối

Từ lúc 5 tuổi, ông Hồng đã quần quật trên đồng muối phụ giúp bố mẹ công việc cào muối. Lớn hơn, chàng trai diêm dân mới đủ sức khoẻ để trải qua quá trình như tưới nước biển xuống ruộng cát, phơi, cào cát, nén cát đổ nước vào để chắt thành nước khắt (nước làm ra muối).

Trên mảnh đất bằng phẳng, dưới cái nắng bỏng rát, người đàn ông thành thục với công việc truyền thống. Ông dùng cày xới đất lên, sau đó phơi cho khô hẳn rồi lại dùng bừa để đất nhỏ tơi, mịn như bột. Đất ấy được cho vào giát rồi nện chặt, múc nước mặn đổ vào. Nước mặn chảy qua giát thành nước khắt, được đưa vào trữ trong các giếng để phơi dần.

“Dưới sức nóng của mặt trời, những ô nước có đủ độ mặn sẽ kết tinh thành hạt muối. Nói thì nghe chừng đơn giản nhưng để làm ra được hạt muối phải trải qua nhiều công đoạn, phơi lưng ngoài đồng, quần quật cả ngày. Mỗi năm, nghề làm muối kéo dài được 4 - 5 tháng, bắt đầu từ tháng 2 âm lịch. Năm nào hạn hán, nắng to, mùa làm muối có thể kéo dài đến tháng 7 âm lịch. Không chạy đua với trời không được”, ông Hồng cho hay.

Gần 70 tuổi, lưng đã còng, bà Trần Thị Hòa vẫn bám ruộng làm muối

Gần 70 tuổi, lưng đã còng, bà Trần Thị Hòa vẫn bám ruộng làm muối

Ông Đào Văn Hồng thu hoạch muối giữa nắng nóng như đổ lửa

Ông Đào Văn Hồng thu hoạch muối giữa nắng nóng như đổ lửa

Xa xa, bà Trần Thị Hòa (SN 1954, trú xóm 4, xã Quỳnh Thuận) ngồi nương theo bóng râm trước kho muối uống nước. Mồ hôi đẫm trán, chảy xuống mặt, cổ. Gần 70 năm làm cư dân làng muối, đồng nghĩa với việc bà Hòa đã đi qua gần 70 mùa hè khắc nghiệt, nhưng chưa bao giờ bà thử đo nhiệt độ cánh đồng muối lúc ban trưa, chỉ biết rằng, mồ hôi đổ càng nhiều, nắng càng rát mặt thì càng thu hoạch được nhiều muối.

Bà bảo: “Người cứ gọi là quắt cả lại...”. Bà Hòa có 4 người con thì không ai theo nghề làm muối. Ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, lưng đã còng, người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ ra đồng mỗi ngày, phơi mình dưới cái nắng cháy da, vắt kiệt mồ hôi để làm muối. Nghề muối vất vả, cực nhọc, giá muối lại quá thấp nên những người như bà, không có việc gì làm mới phải bám trụ. “Nghề muối bao nỗi gian truân, khi trời nắng to, người ta nghỉ ngơi mình lại ra đồng làm liền tay, liền chân”, bà lão rầu rầu.

Trông trời, trông đất…

Giữa trưa nắng oi ả, trên cánh đồng muối xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, hàng trăm diêm dân đang hối hả làm việc. Đưa tay quệt những giọt mồ hôi trên khuôn mặt đen sạm vì cháy nắng, bà Hồ Thị Huệ (SN 1970) cho hay, nghề muối phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Bà và những diêm dân khác luôn thấp thỏm canh nắng, canh mưa, túc trực ngoài ruộng. “Được mùa cũng nhờ ông trời, thất bát cũng tại ông trời. Có những năm, vào mùa muối mới thu hoạch được vài đợt thì mưa như trút nước, phút chốc những cánh đồng muối trở thành biển nước trắng xóa, mênh mông, bà con diêm dân chỉ biết ngậm ngùi đứng nhìn”, bà Huệ tâm sự.

Hơn 40 năm làm nghề muối, bà Huệ cho biết, để làm ra được một mẻ muối phải trải qua nhiều công đoạn nhọc nhằn, vất vả, trần ai. “Nghề muối phụ thuộc vào những “con nắng”, việc tiêu thụ lại bấp bênh. Nhưng giờ nếu không làm muối thì chúng tôi cũng không biết làm gì, vì không có đất nông nghiệp, không có nghề phụ”, bà Huệ thở dài.

Sản xuất muối vất vả, cực nhọc, thu nhập thấp nên trên những cánh đồng muối chỉ còn người lớn tuổi bám trụ

Sản xuất muối vất vả, cực nhọc, thu nhập thấp nên trên những cánh đồng muối chỉ còn người lớn tuổi bám trụ

Khoảng 15 giờ, muối kết tinh, thời điểm này, diêm dân hối hả bắt tay vào công đoạn thu hoạch. Từng ô muối trắng tinh như những “hạt ngọc” được diêm dân cẩn thận gom lại. Theo nhiều diêm dân, giá muối nhiều năm nay vẫn chưa thoát khỏi sự phập phù, lên xuống. Điệp khúc được mùa mất giá, được giá mất mùa vẫn cứ luẩn quẩn.

“Người ta nói vui nghề muối làm một ngày ăn cả năm nhưng giá cả như hiện nay thì diêm dân không đủ sống. Vì thế mà lớp trẻ khi học hết phổ thông, nếu không học đại học, cao đẳng thì đều vào miền Nam lập nghiệp, trên cánh đồng muối bây giờ chỉ còn bóng dáng của những người già. Biết là làm muối thu nhập không cao, nhưng tôi cùng nhiều hộ khác trong thôn không nỡ bỏ, vì muốn giữ nghề truyền thống của cha ông”, ông Hồ Văn Sơn (SN 1965) chia sẻ.

Hạt muối trắng mặn mòi là kết tinh hương vị của biển cả và những giọt mồ hôi chát mặn của diêm dân. Bao đời nay, họ vẫn oằn mình cõng nắng, cõng cả những vất vả của cuộc sống trên vai. Với họ, làm muối không chỉ có thu nhập mà còn để lưu giữ nghề truyền thống...

Ông Bùi Xuân Điện, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ muối Thắng Lợi (xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu) cho biết, đơn vị có diện tích sản xuất muối lớn với hơn 110ha, 818 xã viên. Mỗi năm, Hợp tác xã cung ứng cho thị trường khoảng 12.000 tấn muối. “Nghề muối thu nhập không cao, ưu thế là tận dụng được lao động, nhất là lao động già yếu, phụ nữ… Còn thanh niên trai tráng hay những người trong độ tuổi lao động đi tìm công việc khác, có thu nhập hơn. Với giá muối hiện tại, trong điều kiện nắng to, sức lao động thanh niên tính ra chỉ kiếm được từ 200 - 250 nghìn đồng/ngày thì bám vào nghề muối sống sao được?”, ông Điện chua chát.

Với hơn 600ha làm muối, Quỳnh Lưu là địa phương có diện tích làm muối lớn nhất tỉnh Nghệ An, mỗi năm cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh gần 50 nghìn tấn muối. Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất muối, UBND tỉnh Nghệ An đã có nhiều chính sách hỗ trợ diêm dân như cải tiến chắt lọc, hỗ trợ bạt ni lông để thay đổi phương thức từ sản xuất muối phơi cát truyền thống sang sản xuất muối phơi bạt. Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ từ sản xuất, chế biến nhưng nghề sản xuất muối truyền thống đang đứng trước nguy cơ mất dần lao động.

Có thể bạn quan tâm

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.