Làng chèo đò bên mép núi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Phong Nha có nhiều đổi thay nhưng làng Na vẫn như một thế giới lạc điệu.
 
Làng Na nhìn từ bờ nam sông Son. ẢNH: T.Q.N
Bao đời nay, người làng Na (xã Sơn Trạch, H.Bố Trạch, Quảng Bình) biệt lập dưới chân núi vẫn lặng lẽ sống bám mặt lên đò, tay gắn mái chèo mưu sinh. Phong Nha có nhiều đổi thay nhưng làng Na vẫn như một thế giới lạc điệu.
Nỗi lòng cô gái chèo đò
"Thu nhập từ thuyền có được mấy đâu anh, tụi em phải vay mượn gần cả trăm triệu bạc để đóng thuyền, kiếm lại chỉ vài đồng bấp bênh. Nhưng không làm thì biết làm gì bây giờ"

Cô lái đò tên Bích (làng Na)


Bạch, bạch, bạch. Tiếng máy thuyền nổ đưa chúng tôi rời bến của Trung tâm du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng, ngược dòng Son đi chiêm ngưỡng những vẻ đẹp kỳ thú, huyền ảo lung linh trong lòng động Phong Nha. Dòng sông bắt đầu vào mùa du lịch nên đông vui, tấp nập thuyền bè ngược xuôi đưa đón du khách. Với những loại thuyền như thế và nhỏ hơn, người trong vùng gọi là đò, nhưng giờ lên du lịch rồi, gọi thuyền cho… hợp.
Thuyền chạy với tốc độ vừa phải, đủ để hóng gió mát rượi và ngắm cảnh non nước hữu tình đôi bờ sông. Nước dòng Son trong xanh huyễn hoặc, nhiều chỗ thấy cả rong rêu dưới đáy. “Em tên gì?”, “Dạ, Bích ạ”, cô lái đò trả lời. “Nhà em ở đâu?”, tôi hỏi tiếp. Chỉ tay về phía bờ bắc sông, Bích nói: “Đó, nơi có mấy cây chuối”. Nơi Bích chỉ chính là làng Na. Tôi ậm ừ gật gật nhìn theo dãy nhà giống nhau, nằm san sát bên mé sông.
Từ khi hoạt động du lịch, người làng Na sắm đò mong kiếm miếng cơm manh áo qua ngày. Toàn làng có 230 chiếc đò. Dân nghèo các làng khác trong xã cũng sắm đò chạy nên thừa. Phí mỗi chuyến 360.000 đồng, trừ tiền dầu 60.000 đồng và một số khoản nộp khác trong năm, tính bình quân mỗi thuyền thu được khoảng 25 triệu đồng/năm bởi 1 thuyền chỉ chạy được tầm 100 chuyến/năm. Vào mùa du lịch thì khoảng 3 ngày chạy được 1 chuyến, mùa thấp điểm phải đợi 5 - 7 ngày mới tới phiên, còn mùa đông hoặc mưa lũ nhiều khi cả tháng không có chuyến nào.
 
Làng Na với những ngôi nhà chưa tô trét
Cũng như bao người con gái khác ở làng Na, Bích lớn lên rồi lấy chồng, sinh con sớm và nối gót vác chèo ra sông chở khách. “Thu nhập từ thuyền có được mấy đâu anh, tụi em phải vay mượn gần cả trăm triệu bạc để đóng thuyền, kiếm lại chỉ vài đồng bấp bênh. Nhưng không làm thì biết làm gì bây giờ”, Bích buồn thiu. Thuyền vào đến cửa động Phong Nha, Bích với tay tắt máy. Từ đây, nhà đò phải chèo bằng tay đưa khách vào sâu trong động rồi trở ra. Bích thật thà: “Nếu thuyền đủ khách và nhất là khách Tây thì chèo bở hơi tai. Gặp chuyến nào ít khách tụi em lại mừng”.
Những căn nhà trống hoác và ước mơ nhỏ nhoi

Nghèo khó nhưng người làng Na như những đại sứ du lịch, luôn làm hài lòng du khách. Họ cũng trăn trở ngày đêm, như ông Da vẫn dành một khoảnh đất nhỏ trước nhà để ai đến vãn cảnh có chỗ mà để xe cộ, nghỉ ngơi. Đến gần hết cuộc đời, ông luôn mơ có một ngày, du lịch sẽ đến với làng


Dòng Son thanh bình hơn khi trời đổ chiều tà. Lúc này, các hoạt động chở khách kết thúc, chỉ còn lác đác những chiếc đò của dân làng Na vớt rong rêu trên sông cho cá trắm nuôi trong lồng ăn. Cùng với đi thuyền, nuôi cá lồng là một trong hai nguồn thu chính của người làng Na. Sông Son đoạn qua làng dày đặc lồng bè cá. Những tưởng, cá lồng cho thu nhập khấm khá nhưng khi hỏi ra thì hỡi ơi. Người làng Na chỉ cho ăn rong rêu và cỏ tự nhiên nên cá lớn chậm, phải nuôi 4 đến 5 năm, khi cá đạt trọng lượng 4 kg một con trở lên mới xuất bán được. Bù lại, cá lồng sông Son trở thành thương hiệu không lẫn vào đâu được với con cá to khỏe, chắc, thịt dai mà thơm ngon. Chưa ăn cá trắm lồng coi như chưa đến Phong Nha là vậy.
Thành ra, làng Na mãi như một miền cổ tích bên dòng sông thơ mộng. Chung một dòng nhưng bên này bờ nam thì nhà cửa sầm uất, xe cộ và người đi lại nhộn nhịp. Mặt trời tắt nắng, tôi ngồi bên này nhìn sang làng Na, cảnh đẹp muôn trùng với sông núi hữu tình, trên bến dưới thuyền nhưng lòng buồn hiu hắt. Bởi ngôi làng hiện lên quá rõ cái nghèo khó, từng ô nhà xây gạch đỏ chưa tô trét đã rêu mốc nằm san sát nhau. Sau lưng, núi cao sừng sững. Trời nhá nhem tối, bóng điện treo trước mỗi ngôi nhà tỏa ánh sáng leo lét.
 
Bích chèo thuyền đưa khách vào trong động Phong Nha
Người làng Na một đời khó. Dòng Son bình thường hiền hòa vậy nhưng đến mùa lũ thì trở thành bể nước đục ngầu hung tợn, đoạn sông như một túi hứng nước khắp núi rừng đổ về ứ lại không kịp thoát ra biển; vì ở hạ nguồn nước cũng lớn, thủy triều dâng cao. Đến mùa, nước lũ dâng ngập nửa ngôi nhà là chuyện bình thường ở làng Na. Vì thế, con đò như lá bùa hộ mệnh cho dân làng. Qua trung tâm xã hoặc đi chợ bà con làng chủ yếu sử dụng đò sang bờ nam sông. Sự cách biệt nam - bắc quá lớn.
Tôi hỏi đường về làng mong giải mã thêm được những thắc mắc. Từ đường Hồ Chí Minh, tôi rẽ vào thôn Xuân Sơn nơi có bến phà Xuân Sơn - một trong những tọa độ lửa thời chiến tranh giải phóng đất nước. Năm xưa, nơi đây, hàng ngàn tấn lương thảo, thiết bị, phương tiện và người đã anh dũng vượt sông tiến thẳng miền Nam ruột thịt. Gần đó, một con đường nhỏ mới mở men theo triền núi cheo leo để vào làng. Đường quanh co, gồ ghề; một bên núi cao, một bên vực sâu.
Thấy tôi, ông Nguyễn Văn Da (65 tuổi) chủ động hỏi chuyện. Ông bảo đã có 17 năm chạy đò. Hết tuổi, ông không được chạy nữa nhưng đò vẫn còn đó. Đến phiên, ông lại kêu người chạy thay. Tiền đò chia năm sẻ bảy, còn lại chẳng bao nhiêu. Ngôi nhà ông trống hoác, trơ những mảng tường nham nhở. Hỏi sao không tô, ông nghẹn ngào nói: “Không có tiền, có thì cũng tô trét cho sạch sẽ, mát mẻ chứ”. Nhà không có giếng, ông phải chắt chiu từng giọt nước mưa và mua nước sạch mỗi bình 12.000 đồng về ăn uống; còn tắm giặt thì ra sông. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Hiếu, 63 tuổi vẫn phải một mình chèo đò ra giữa sông vớt rong cả buổi chiều về cho cá ăn.
Ông Da “bật mí” đang cầm cố sổ đỏ đất cho 2 đứa con đi nước ngoài làm ăn. Cầm lái đò ở đây hầu hết là đàn bà con gái. Đàn ông con trai ở làng giờ gần như phiêu bạt khắp nơi. Theo Trưởng thôn Hoàng Minh Tuyên, thôn có 242 hộ với 997 khẩu nhưng chỉ có khoảng 5,5 ha đất màu, 16 ha lúa.
Người chồng đi để lại phụ nữ ở nhà vò võ chèo đò, nuôi con, chờ chồng. Những nhà liền kề ông Da như nhà Lực, Đồng, Điện đều đóng cửa im ỉm. Ở nhà kế nữa, Mừng, cô vợ trẻ cũng ngày đêm lủi thủi với
2 đứa con dại. “Đi hết rồi”, ông Da nói. Làn sóng thoát ly làng đã cách đây vài năm nhưng chưa đem về tín hiệu vui. Đi dọc làng mới thấy, hầu như nhà nào cũng trống trơ, u ám. Những người ở lại làm lụng quần quật nhưng cũng cảnh chạy bữa. Như đôi vợ chồng trẻ Nguyễn Văn Hồng và Nguyễn Thị Mười cưới nhau từ năm 2008, hết chạy thuyền chở khách lại ra sông vớt rong. Năm 2012, vợ chồng Hồng cất được nhà với chỉ 180 triệu đồng mà mãi đến 2019 mới trả xong nợ.
Trương Quang Nam (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null