Kho báu, án oan Tân Lộ Kiều Lương và những mảnh gốm vỡ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cuộc sống thường ngày của gia đình Thoại Ngọc Hầu ra sao? Sách viết về Thoại Ngọc Hầu nặng đến mấy ký, nhưng quanh quẩn cũng chỉ có sự nghiệp và công lao gắn liền với việc khai phá miền Tây Nam Bộ. Câu hỏi đó cứ ám ảnh tôi cho tới một ngày tận mắt thấy những mảnh gốm vỡ từ một kho báu bí mật được khai quật từ khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu bên triền núi Sam…

Kho báu bí mật hơn 180 năm

Một buổi sáng cách đây 8 năm (20.9.2009), khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu ở dưới chân núi Sam lúc ấy đang trong quá trình tu bổ. Trong khi dọn dẹp mặt bằng để chuẩn bị lát gạch chung quanh thì các công nhân của đơn vị thi công phát hiện một khoảnh đất bị sụp xuống. Ban Quản lý khu di tích Lăng miếu núi Sam và Bảo tàng An Giang sau đó đến khảo sát, thống nhất nhận định khả năng có khu vực chôn đồ tùy táng là rất lớn và xin phép UBND tỉnh và Sở VH-TT-DL An Giang tiến hành khai quật khu vực này.

 

Tân Lộ Kiều Lương, đoạn mang tên Thoại Ngọc Hầu ở thành phố Châu Đốc.
Tân Lộ Kiều Lương, đoạn mang tên Thoại Ngọc Hầu ở thành phố Châu Đốc.

Và những người khai quật đã không tin vào mắt mình khi sau 4 ngày, số lượng hiện vật thu được lên con số hơn 500 hiện vật phong phú và đa dạng, gồm nhiều chất liệu: vàng, bạc, đồng, đồng tráng men (pháp lam), sắt, antimony, gỗ, gốm sứ, thủy tinh, đá, ngà, xương, răng, nanh hổ, vỏ ốc... và hàng trăm tàn tích đồ gỗ, đồ vải, đồ kim loại... Tất cả cổ vật có niên đại từ thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19 có xuất xứ từ nhiều nơi trên thế giới.

“Đó là một kết quả mang lại cho chúng tôi sự thú vị và bất ngờ lớn bởi cho đến nay, những phát hiện đã công bố về đồ tùy táng của các quan lại đại thần phong kiến Việt Nam, thậm chí của cả vua nữa, chưa từng có nhân vật nào vừa có công lao, tài đức mà còn để lại một khối lượng di vật to lớn, quý giá và phong phú như vậy.

Các hiện vật này đã giúp phần nào hình dung về cuộc sống của tầng lớp quan lại cấp cao Việt Nam đầu thế kỷ 19 tại khu vực biên giới phía Tây Nam”, ông Bùi Hữu Tâm – Tổ phó Tổ quản lý lăng Thoại Ngọc Hầu- nói. Lạ là cho đến trước khi phát hiện, trong dân gian hầu như không có những huyền thoại lưu truyền về đồ tùy táng ở lăng mộ Thoại Ngọc Hầu. Thậm chí những ký ức về cuộc sống gia đình ông cho đến nay cũng không còn dấu vết, đặc biệt là khu vực dinh quan bảo hộ (ông từng giữ chức Thống chế Bảo hộ Cao Miên), nơi sinh sống của gia đình Thoại Ngọc Hầu lúc đương thời cũng chưa xác định được chính xác.

Chỉ đến năm 2003, kết quả khảo sát mới cho thấy có dấu hiệu dinh quan bảo hộ cũ hiện nay nằm trong khu vực doanh trại Quân đội nhân dân Việt Nam ở Châu Đốc. Cũng trong hơn 180 năm đó, lăng Thoại Ngọc Hầu đã trải qua nhiều nhiệm kỳ của nhiều ban quản lý và hàng chục lần trùng tu sửa, nhưng tuyệt nhiên đã không có một phát hiện hoặc một ghi chép nào về đồ tùy táng của Thoại Ngọc Hầu. Điều đó chứng tỏ hậu nhân của ông, những người được giao sứ mạng chôn cất các di vật, đã giữ bí mật một cách tuyệt đối khối di sản quý giá này trong lòng đất.

Cuối cùng thì câu hỏi gia đình Thoại Ngọc Hầu từng sống và sinh hoạt ra sao của tôi cũng được giải đáp phần nào khi được dạo một vòng trong nhà Bảo tàng Cổ vật Thoại Ngọc Hầu ở bên trái khu lăng mộ. Những câu chuyện của đời sống thường ngày của một gia đình quan lại triều Nguyễn bỗng hiện về mồn một qua lăng kính những hiện vật không còn nguyên vẹn, từ đồ sinh hoạt cá nhân, đồ được tặng biếu và ban thưởng, đồ quý kim làm của để dành, đồ kỷ niệm, đồ y tế, đồ dùng trong thú vui thưởng ngoạn...

Thú vị nhất là có đến 304 hiện vật và khá nhiều tàn tích hiện vật thuộc về bà Châu Thị Vĩnh Tế - vợ cả của Thoại Ngọc Hầu. Trong khi đó, hiện vật thuộc về Thoại Ngọc Hầu lại ít hơn vợ một chút về số lượng nhưng lại có rất nhiều khác biệt khi ông có những hiện vật dùng riêng mà bà không có như 3 chung, 1 đĩa sứ Cảnh Đức men xanh trắng vẽ phong cảnh sơn thủy do vua ban; mão quan bằng vàng có gắn 9 con rồng và 33 chi tiết; một cái lấy rái tai và tẩu hút thuốc; 1 kính đeo mắt gọng kim loại của châu Âu có thể gấp lại, mắt kính tròn, loại 2,5 độ…

Án oan Tân Lộ Kiều Lương…

Hôm từ Núi Sam trở về thành phố Châu Đốc trên Tân Lộ Kiều Lương gặp đúng mùa trăng, tôi quyết định dừng xe tản bộ để nghe cảm giác “Vần dương mai in rõ bước chân/ Bóng trăng tối lồng theo tận gót” như Thoại Ngọc Hầu năm nào viết trên bia ký “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” khi hoàn thành đoạn đường dài hơn 5km này cùng thời với việc đào kênh Vĩnh Tế.

 

Bàn ủi - một trong những hiện vật liên quan đến bà Châu Thị Vĩnh Tế được trưng bày ở bảo tàng.
Bàn ủi - một trong những hiện vật liên quan đến bà Châu Thị Vĩnh Tế được trưng bày ở bảo tàng.

Đặc biệt, trong bài bi ký này có một chi tiết rất lạ là Thoại Ngọc Hầu chỉ xin “lệnh trên” phê chuẩn chủ trương làm đường. Còn chi phí do ông lấy từ bổng lộc cá nhân và các quan viên lân cận quyên góp, nhân dân hỗ trợ sức người và xe cộ... Và cuối bài bi ký ông chỉ khiêm tốn nhận xét việc mình làm rằng: “Làm việc ấy chính là đã tỏ chút lòng đền đáp của kẻ chăn dân”.

Mới đó mà đã ngót 180 năm. Và giờ, tấm bia ký đã hòa mình vào gió bụi biên cương nhưng Tân Lộ Kiều Lương thì vẫn còn đó với 8 làn xe và 2 tên đường khi đoạn xuất phát ở trung tâm thành phố Châu Đốc có tên là Nguyễn Văn Thoại. Lần nào sải bước trên con đường này, tôi cũng nghe mình bồi hồi bởi đang chạm, đẫm vào một sự kiện lịch sử đặc biệt. Bởi chính Tân Lộ Kiều Lương là một trong những lý do khiến sau khi qua đời ông bị dinh vào một án oan và bị vua Minh Mạng Minh Mạng xuống lệnh tịch thu gia sản, rồi truy giáng ông từ hàm nhị phẩm xuống thất phẩm, tước quyền tập ấm của con trai, bao nhiêu gia sản đều sung công, dù trước đó năm 1829, khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, ông không những được truy thăng chức vụ, thưởng thêm nhiều tiền và gấm lụa, mà con trai trưởng còn được tập ấm chức Ân kỵ úy.

Chuyện là một ngày đẹp trời, quan Thị lang Tào Hình Bộ là Võ Du đi dò xét tình trạng dân Chân Lạp trở về đã báo cáo với quan Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt rằng Nguyễn Văn Thoại khi lĩnh chức Bảo hộ, ngày thường bắt dân Chân Lạp đi lấy gỗ táu đem nộp mà không cấp tiền và gạo, lại bắt dân Chân Lạp đắp đường cái (Tân Lộ Kiều Lương) để phục vụ việc đưa tang vợ từ Châu Đốc ra núi Sam…

Lê Văn Duyệt đem lời tố cáo ấy tâu lên triều đình, lập tức vua Minh Mạng ra lệnh tịch thu gia sản và giao cho Bộ Hình nghiêm trị. Vụ việc này khiến Minh Mạng ghét Thoại Ngọc Hầu đến nỗi vào tháng 7 năm 1830, khi một vị quan ở Gia Định dâng sớ xin cấp phu trông coi mộ ông, nhà vua thẳng thừng từ chối. Đọc đến đây không nhịn được cười bởi Minh Mạng, suy cho cùng cũng là con người với đầy đủ những xúc cảm tầm thường. Và cũng cần nhắc lại là trước đó, khi Thoại Ngọc Hầu và vợ ông - bà Châu Thị Vĩnh Tế còn sống, chính vua Minh Mạng đã làm một việc vô tiền khoáng hậu khi cho lấy tên bà để đặt tên kênh Vĩnh Tế sau đó khắc lên cửu đỉnh để thờ trước Thế miếu trong Đại Nội.

Chưa hết, tháng 3-1838, Nguyễn Văn Quang (là cháu họ của Nguyễn Văn Thoại, đồng thời là cháu nội của Khâm sai Thuộc nội Chưởng cơ Nguyễn Văn Bình) đã cùng Lê Văn Sơn (cháu họ của Lê Văn Duyệt) đang là tù phạm bị giam ở ngục tỉnh Gia Định, bàn mưu vượt ngục chiếm giữ thành phản lại triều đình. Mấy người này sau đó bị bắt, bị kết án xử tử lăng trì. Lần này thì Thoại Ngọc Hầu liên luỵ, bị triều đình lấy lại các sắc dụ đã cấp và bị tước luôn hàm Chánh ngũ phẩm...

Thực tế thì lịch sử đã chứng minh những lời của Võ Du là vu cáo, không có cơ sở nhưng phải đến thời Khải Định, tức gần 90 năm sau, Thoại Ngọc Hầu mới được minh oan, danh dự của ông mới phục hồi khi được phong thần (Đoan Tức Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần). Chuyện án oan của Thoại Ngọc Hầu có gì đó hơi buồn cười khi vua Minh Mạng và cả Tổng trấn Lê Văn Duyệt thời đó chỉ nghe tâu một chiều mà không cần suy xét.

Nhớ hôm mãi miết với những mảnh gốm vỡ từ kho báu Thoại Ngọc Hầu, không hiểu sao lại nghe chạnh lòng khi nhớ về người cũ. Phận người suy cho cùng cũng không khác chi phận gốm. Lành đó rồi lại vỡ, vinh đó rồi lại nhục, huy hoàng đó mà rồi cũng tan tác đó. Nhưng dù có thế nào thì gốm quý vẫn như châu ngọc, dù vỡ vẫn sáng chứ không như ngói lành vẫn tồi tàn. Với người dân miền Tây Nam Bộ, Thoại Ngọc Hầu bây giờ là “ân đức” chứ không còn là “công lao” đơn thuần. Nên dù thế cuộc có xoay vần ra sao, Thoại Ngọc Hầu vẫn là một ngọn núi lừng lững giữa đất trời phương Nam, càng lùi xa càng nhìn thấy sự vĩ đại đôi khi không nói hết bằng câu chữ...

Tường Minh/laodong

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null