Duyên tình Việt - Khmer

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những ngày làm hồ sơ này, tôi gặp nhiều người gốc Việt kết duyên với người Campuchia. Dù có những khác biệt trong phong tục, lối sống, nhưng nhìn chung đó là những gia đình hạnh phúc.

Vợ chồng chị Nguyễn Thị Thủy Tiên - Meas Chetra trong quán cà phê của mình
Vợ chồng chị Nguyễn Thị Thủy Tiên - Meas Chetra trong quán cà phê của mình
Theo phong tục của người Campuchia, khi nam nữ có ý định tổ chức đám cưới, nhà trai sẽ đưa cho nhà gái một số tiền với hàm ý cảm ơn đã nuôi dưỡng người con gái lớn khôn. Nhà gái sẽ đứng ra tổ chức đám cưới, thuê nhà hàng để đãi khách

“Sống chung nhà với ảnh, chị thấy thế nào?” - tôi hỏi chị Thạch Yến (40 tuổi, quê Sóc Trăng) khi chị say sưa kể về những ngày chị mới gặp gỡ người chồng Campuchia (43 tuổi) của mình. Vì không biết cách ghi tên Khmer của chồng nên chị “đặt tên” cho anh là Minh để dễ gọi.

Duyên tiền định

Chiều tối, trong khung cảnh lao xao của quán cơm bán món Việt Nam do mình làm chủ, chị Yến cười tươi trả lời câu hỏi của tôi: “Hiện giờ tôi thấy hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống của mình lắm”.

Vẻ mặt rạng rỡ, chị âu yếm dỗ dành cậu con trai út chưa đầy 1 tuổi đang đòi mẹ. Hai mẹ con bên nhau chưa được 5 phút, lại có khách vào gọi cơm.

Chị lại trao con cho người giúp việc, loay hoay lấy cơm cho khách. Tiệm cơm của chị nằm trên đường 115, bán từ trưa đến chiều nhưng khoảng 6g chiều là đã gần hết đồ ăn. Anh Minh làm thợ bạc bên chợ, thế nên mình chị xoay xở với quán cơm này.

Chị Yến nhớ lại những ngày đầu mới quen biết anh Minh. Mẹ mất từ nhỏ, sáu anh em chị Yến côi cút ở căn nhà nhỏ trên cánh đồng tuốt miền quê nghèo của Sóc Trăng.

Chị kể: “Tôi nhớ đó là những năm 1980, tôi còn nhỏ xíu, tới mùa gặt là lại theo anh chị đi mót lúa về đãi gạo nấu cơm. Lớn lên một chút, tôi cũng đi làm mướn nhưng ít ai mướn lắm. Lúc đó dưới quê cũng chưa có nhà máy, xí nghiệp như bây giờ, chứ không thì cũng không tới nỗi bỏ xứ mà đi”.

Năm 1991, tròn 15 tuổi, chị Yến nghe lời người quen, một mình qua Phnom Penh với hi vọng cuộc đời mình sẽ tốt hơn.

“Ngày đi chỉ có mấy bộ quần áo, ít tiền đi xe. Tôi lần tìm được nhà của người anh họ ở bên này rồi ở nhờ. Không có nghề nghiệp gì nên sáng nào tôi cũng đi lấy bánh cam rồi đi bộ hơn chục cây số để bán. Tiền lời từ bán bánh chỉ đủ hai bữa cơm sáng chiều” - chị nhớ lại.

Không nản lòng, suốt 2 năm ròng chị kiên nhẫn đội mâm bánh cam đi bán khắp nơi.

Năm 1993, dành dụm được chút tiền, chị Yến thuê sạp trước chợ gần nơi ở để bán chè, bán cà phê. Năm 1996, anh Minh làm thợ bạc ở chợ, hay ghé ngang ăn chè, uống cà phê chỗ sạp chị. Chuyện trò qua lại, hai người sinh lòng cảm mến. Một năm sau, anh ngỏ lời muốn cưới chị.

“Lúc đó tôi cũng suy nghĩ nhiều lắm. Mình nghèo khổ côi cút, anh khá giả, lại cao ráo đẹp trai, lại là người Campuchia biết có hòa hợp không. Nhưng anh nói không có vấn đề gì đâu” - chị kể.

Chị còn nhớ ngày đưa anh về giới thiệu với họ hàng, gia đình ở Sóc Trăng. Chị cười: “Vì xa quê lúc còn nhỏ nên ngày về tôi còn không biết đường đi. Gia đình thấy chúng tôi hạnh phúc thì mừng lắm, đồng ý cho cưới”.

Ngày chị cưới, vì điều kiện xa xôi cách trở nên chỉ tổ chức ở nhà chồng với một đám cưới đơn sơ. Về nhà chồng, chị Yến không đi bán chè nữa mà “kế nghiệp” quán cơm của mẹ chồng.

Dù phải học cách nấu nướng, ngày nào cũng bận bịu từ sáng tới tối mịt nhưng chị nói: “Lúc nào tôi cũng có cảm giác được chồng chia sẻ, chăm lo”.

Anh chị đã có với nhau ba người con trai. Con lớn vừa vào đại học, con giữa học lớp 9 và con út gần 1 tuổi. Chị kể cả ba đứa con đều ngoan, học giỏi và thương cha mẹ. Hai vợ chồng hiếm khi bất đồng.

“Anh hiền, hay quan tâm nhường nhịn vợ. Tôi có phước lắm mới lấy được ảnh” - chị nói. Vì thương chị, anh Minh cố học tiếng Việt, đồng thời chỉ cho vợ tiếng Khmer.

Hai con trai đều rành tiếng Việt. Chị cười: “Cả nhà ráng hằng năm về Sóc Trăng chơi và ăn tết hai lần. Nếu năm nào không về được, chúng tôi cũng ăn tết theo kiểu Việt Nam, có bánh tét, thịt kho trứng đầy đủ”.

Biết yêu nhau là được

Quán cà phê của vợ chồng chị Nguyễn Thị Thủy Tiên (23 tuổi) và anh Meas Chetra (29 tuổi) nằm trên đường 223, quận Toul Kork, từ sáng sớm đã đông người ghé uống. Quê Tiền Giang, chị Tiên theo cha mẹ qua Phnom Penh từ năm 10 tuổi.

“Học xong đại học tại Phnom Penh, tôi làm nhân viên cho một công ty xuất nhập khẩu. Trong thời gian này, tôi quen biết anh Chetra vì làm chung công ty. Nhận thấy tính anh hiền lành, nhiều điểm tương đồng, 2 năm sau tôi đồng ý cưới anh” - chị Tiên kể.

Hiện hai vợ chồng chị Tiên và cha mẹ chồng cùng lo cho quán cà phê. Quán bán từ sáng sớm đến tối khuya nên hiếm khi họ có thời gian rảnh rỗi. Tuy vậy, theo chị Tiên, hai vợ chồng còn trẻ, lại biết chia sẻ cùng nhau nên dù khó khăn gì cũng có thể vượt qua.

Vì còn trẻ nên không tránh khỏi những lần cãi vã nhưng chị Tiên nói cả hai người đều biết tôn trọng và nhường nhịn nhau.

“Chúng tôi cũng thi thoảng về quê ngoại chơi. Anh rất thích những món ăn Việt Nam do tôi nấu” - chị cười tươi.

Trong bữa ăn hằng ngày, hai vợ chồng chị Tiên có khi ăn món Việt Nam, có khi chị trổ tài nấu các món Khmer như món “a móc” (là món ăn truyền thống của người Khmer, có gà, cà ri, sả...), các loại canh chua, các món cá...

Dù ở Phnom Penh mới 13 năm nhưng chị Tiên hòa nhập rất tốt với phong tục tập quán nơi này. Chị rất thích những ngày lễ của Campuchia như ngày tết Khmer, lễ Chum, ngày hội đua thuyền...

Chị tâm sự, cũng như những đôi vợ chồng Việt - Khmer khác, sau này chị cũng sẽ dạy các con nói tiếng Việt, thường xuyên đưa chúng về thăm quê hương.

Theo Tuoitre

Chuyện người gốc Việt nên duyên với người Khmer không phải hiếm. Nhiều đôi vợ chồng tiểu thương Việt - Khmer mà chúng tôi gặp ở Phnom Penh với những hoàn cảnh khác nhau nhưng đều siêng năng cần cù, sống hòa thuận yên ấm.

Thông qua những mối lương duyên này, người Campuchia và người Việt Nam chia sẻ với nhau cách làm ăn buôn bán, nhiều người trong số họ trở nên khá giả.

Chị Nguyễn Thị Vân (35 tuổi, bán cá tại chợ Bàu Nau) lấy anh Ưn Ơem (42 tuổi) 12 năm nay. “Chồng tôi làm nghề chở khách đường xa, ai kêu thì đi. Nhưng tôi sẽ hướng ảnh qua lo buôn bán phụ tôi để nuôi ba đứa con và phát triển thêm bè nuôi cá” - chị nói.

Dù chị phải học tiếng Khmer để nói chuyện với gia đình chồng nhưng chị vui vẻ nói rằng tính cách có khác biệt một chút nhưng miễn vợ chồng thương nhau là được.

Còn ông Trần Thanh Bá (72 tuổi, bán phụ tùng ôtô ở đường 289, quận Toul Kork) cho biết hai người con trai của ông cũng lấy vợ người Khmer.

Làm ở Tổng hội người Campuchia gốc Việt, ông nói việc người gốc Việt nên duyên với người Khmer khá phổ biến và phần lớn có cuộc sống ổn định nhờ chịu khó làm ăn, biết vun vén gia đình.

Có thể bạn quan tâm

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

null