Độc đáo "Đũa cau rừng"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Đũa được làm từ cây cau rừng (có tên là nang rưng) ở xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh từ lâu đã trở thành thương hiệu của địa phương. Đây là một sản phẩm độc đáo của người dân mà không ở đâu có được. “Đũa cau rừng” vì nhiều lý do gần như đã rơi vào quên lãng nay đang dần được khôi phục.  

Thoát nghèo từ cây cau rừng

Trong ký ức của tôi, làng nghề làm đũa ở xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh là một ngôi làng nằm ngay cạnh ga xe lửa Bắc - Nam. Gọi là làng đấy, nhưng thực chất chỉ có một phần của làng theo nghề làm đũa mà thôi. Mỗi lần được mẹ giao đi chợ qua đấy, thể nào tôi cũng đi chầm chậm để được xem cách bào, cách gọt đũa nhanh thoăn thoắt của các bà, các chị nơi đây. Nghề sản xuất đũa nơi đây đã có từ lâu, rồi người ta quên lãng và giờ đây tiếp tục phát triển trở lại mấy năm nay. Thời gian tuy chưa dài nhưng cũng đủ để khẳng định sản phẩm của người dân Phúc Trạch mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Đoàn Văn Hải lấy nghề vót đũa làm nghề chính của gia đình. Ảnh: Mai Ka
Nhiều gia đình lấy nghề vót đũa làm nghề chính. Ảnh: Mai Ka

Điều đặc biệt làm nên sự độc đáo của làng nghề không nơi nào có được, đó là đũa được làm bằng cây cau rừng, gọi là cau nang rưng. Là loại cau mà chỉ mỗi ở xứ rừng núi này mới có. Đũa cau nang rưng tuy không thật sự tinh xảo và khá là đơn điệu về kiểu dáng nhưng độ bền, độ bóng của sản phẩm thể hiện được sự cần cù cũng như sự khéo léo của đôi bàn tay, khối óc của người dân Phúc Trạch.

Khởi điểm cho làng đó là hộ gia đình ông Chiên bà Thanh ở xóm 3- xã Phúc Trạch. Gia đình bà Thanh lấy cau vót đũa bán. Lúc đầu cũng ít người ưa chuộng nhưng có lẽ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nên sản phẩm đũa cau rừng dần được nhiều người tìm đến. Thấy hộ gia đình ông Chiên, bà Thanh dần thay đổi được cuộc sống nhờ vào cây cau nang rưng ở rừng, từ đó các hộ dân xung quanh cũng học hỏi kinh nghiệm của bà để sản xuất đũa. Lúc đầu thì chỉ có vài hộ, rồi thấy hiệu quả nên truyền tay nhau bây giờ đã có rất nhiều người nơi đây thay đổi được cuộc sống nhờ nghề vót đũa.

một trong những công đoạn để sản xuất đũa cau. Ảnh: Mai Ka
Một trong những công đoạn để sản xuất đũa cau. Ảnh: Mai Ka

Bà Thanh vừa mời chúng tôi bát nước chè xanh vừa lấy tà áo lau vội những giọt mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt, bà tâm sự: “Ở làng quê nghèo này, ngoài đồng ruộng và những gánh củi trên rừng thì thật sự chúng tôi cũng không biết làm gì ra tiền để có thể nuôi các con ăn học và chu cấp cho sinh hoạt gia đình. Từ khi biết lấy cây cau nang rưng ở rừng về làm đũa bán, thú thực kinh tế gia đình cũng đỡ hơn nhiều. Ban đầu còn gặp hơi nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nhưng giờ thì đỡ hơn nhiều. Bởi chất lượng sản phẩm được truyền xa nên mọi người ai cũng tìm đến mua”. Bà Thanh cho biết thêm, khi mới bắt đầu với nghề, mọi người chủ yếu dùng dao để vót đũa nên sản phẩm làm ra không được trơn và đều. Hơn nữa lại hạn chế về số lượng. Từ đó, mọi người cũng đã nghĩ ra cách dùng bào để thay thế cho việc vót bằng dao, nên sản phẩm ra đời đều hơn. Sau đó, đũa được mang đi chà với lá chuối khô để được mịn và trơn hơn.

Ông Trần Văn Hành hăng say chẻ cau. Ảnh: Mai Ka
Ông Trần Văn Hành hăng say chẻ cau. Ảnh: Mai Ka

Cùng với hộ gia đình bà Thanh, hộ gia đình ông Trần Văn Hành cũng theo nghề làm đũa hơn 10 năm nay. Đi từ những cái khó đến những cái dễ. Bàn tay con người cứ chịu khó miệt mài sản xuất rồi kết quả đã mỉm cười với những người dân nơi đây. Trong khi đồng ruộng chỉ ăn theo mùa vụ thì ngược lại nghề làm đũa lại quanh năm. Một điều quan trọng là ở trong giai đoạn thị trường đang tràn ngập những hoá chất gây mất an toàn đối với sức khoẻ người tiêu dùng thì đũa cau lại là một trong những giải pháp lựa chọn rất đáng tin cậy. Như với hộ gia đình ông Hành thì bây giờ đã lấy nghề vót đũa làm chủ đạo chính trong gia đình. Thu nhập một tháng của cả gia đình ông cũng trung bình từ 6-8 triệu đồng. Cũng từ nghề này mà gia đình ông đã nuôi được năm đứa con ăn học Đại học. Đũa cau không chỉ được người dân ưa thích mua về sử dụng mà nhiều người còn mua để làm quà biếu cho người thân khắp mọi miền đất nước. Với những dịp cuối năm nhu cầu về đũa cau lại càng cao. Khách hàng phải đến để đặt trước thì mới có được. Thậm chí, nhiều gia đình phải tranh thủ làm thêm cả ban đêm vẫn không đủ đũa giao cho khách hàng.

Hướng đi còn nhiều gập ghềnh

Đối với nghề làm đũa, cái cơ bản nhất là yêu cầu phải có cây cau rừng, và yêu cầu cau phải già trên 20 năm tuổi, có đường kính từ 20 - 30cm, cao trung bình 7m. Chỉ có 2m cau gốc mới sử dụng vót  được đũa. Vì sự chọn lọc khá kỹ càng đó nên cau càng ngày càng hiếm. Bây giờ để đi lấy cau thì người dân phải đến các vùng rừng của huyện lân cận như Vũ Quang, Hương Sơn. Mỗi chuyến đi phải mất 3 ngày may ra mới được một bó khoảng 20 đoạn (mỗi đoạn 2m). Để làm ra đũa thành phẩm phải trải qua các công đoạn: cắt, chẻ, đẽo, bào phả, bào trau, mít, chà, phơi. Trong đó bào trau là công đoạn quyết định của sản phẩm. Nếu gặp thời tiết mưa nhiều thì phải sấy đũa bằng than vì đũa khô thì mới không bị mốc.

Cây cau rừng ngày càng khan hiếm. Ảnh: Mai Ka
Cây cau rừng ngày càng khan hiếm. Ảnh: Mai Ka

Rõ ràng trong cơ chế thị trường hiện nay thì làm bất kỳ mặt hàng gì thì bao giờ người sản xuất cũng phải lấy chất lượng và chữ tín đặt lên hàng đầu. Chẳng ai dạy cho những người làng đũa Phúc Trạch biết thế nào là thị trường hay không thị trường nhưng họ biết chắc một điều nếu muốn sống được bằng nghề thì hàng hóa của họ làm ra phải đạt chất lượng và phải biết giử uy tín với bạn hàng. Phát triển nhanh là thế nhưng nghề làm đũa ở Phúc Trạch cũng gặp nhiều khó khăn. Ông Trần Văn Hành chia sẻ: “Giá cau càng ngày càng cao và nguồn cung cấp lại khan hiếm. Chúng tôi không thể dùng cau non kém chất lượng để làm đũa vì sẽ không đảm bảo. Hơn nữa thị trường đầu ra cho sản phẩm vẫn chưa thực sự được quan tâm. Đây thực sự là thách thức với người làm đũa”. Những hộ sản xuất đũa ở đây vẫn miệt mài đi bán những bó đũa cau “nang rưng” trên mảnh đất quê hương mình. Thông qua những chuyến tàu dừng tại ga Phúc Trạch, bà Thanh, ông Hành cũng như bao người dân khác đều mong muốn những chuyến tàu sẽ mang đũa cau “nang rưng” đi đến nhiều nơi, hiện diện trên các bàn ăn lớn nhỏ của ba miền đất nước.

 Đũa cau nang rưng không thật sự tinh xảo nhưng độ bền, độ bóng rất khác biệt. Ảnh: Mai Ka
Đũa cau nang rưng không thật sự tinh xảo nhưng độ bền, độ bóng rất khác biệt. Ảnh: Mai Ka

Rời xóm đũa Phúc Trạch lúc trời sập tối, nghe tiếng nói cười của những bà, những cô thôn nữ hòa vào tiếng bào đũa gấp gáp, đều đặn, lại thấy mừng vì người dân ở đây luôn nặng tình, biết trân trọng, bảo tồn và phát huy những gì đẹp đẽ, thanh cao của quê hương.

Mai Ka

Có thể bạn quan tâm

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null