Vợ chồng sẵn sàng cùng hi sinh nơi chiến địa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Những ngày máu lửa bảo vệ biên giới phía Bắc có một chuyện tình đẹp giữa nữ sinh Hà thành và người lính khi cô lên mặt trận hát động viên chiến sĩ. Nơi mà họ đã có những ngày cầm súng bên nhau với lời thề cùng chiến đấu và cùng hi sinh.
Đôi vợ chồng Hà Đăng Ninh - Lê Thu Thủy bây giờ - Ảnh: MY LĂNG
Đôi vợ chồng Hà Đăng Ninh - Lê Thu Thủy bây giờ - Ảnh: MY LĂNG
Tôi không sợ chết. Nhìn anh em đang lao vào sẵn sàng chiến đấu, chồng phải chỉ huy bộ đội, tôi cầm chặt súng, sẵn sàng bắn trả đến viên đạn cuối cùng nếu nó tràn sang. Nếu phải hi sinh thì vợ chồng tôi cùng hi sinh ở trận địa.
Bà LÊ THU THỦY

Nữ sinh Hà Nội ấy là Lê Thu Thủy. Người chồng bộ đội của cô tên Hà Đăng Ninh ở sư đoàn 337. Một lần lên thăm chồng giữa trận mưa pháo, cô phụ vác hòm đạn chứa tài liệu và bị sẩy thai mất đứa con đầu lòng.

Mối tình nữ sinh và người lính
41 năm trước. Tháng 2-1979, khi quân bành trướng Trung Quốc ồ ạt tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, Trường đại học Sư phạm Hà Nội đã cử nhiều đợt sinh viên lên mặt trận biên giới Lạng Sơn hát động viên tinh thần chiến sĩ sư đoàn 337 và sẵn sàng chiến đấu cùng bộ đội. 
Khi đó, cô sinh viên năm 2 Lê Thu Thủy mới 20 tuổi, tình nguyện mang tiếng hát động viên chiến sĩ nơi chiến tuyến. Phân đội Thủy được phân công đến trung đoàn 4 (sư đoàn 337) đóng quân sát cửa khẩu Hữu Nghị.
Sáng 1-8-1980, phân đội được phân công xuống tiểu đoàn 1 - trung đoàn 4 biểu diễn văn nghệ. "Hôm đó, tôi hát bài dân ca, có câu "Anh bộ đội ơi, có anh canh giữ đất trời/...Ánh mắt ngời sáng cả muôn phương, sáng cả như sao, sao sáng trên đầu..." mà tự nhiên thấy anh ấy đứng ngay trước mặt, đội mũ cối gắn sao trên đầu. 
Nhìn ánh mắt anh ấy, tự nhiên mình có cảm giác anh trông rất đáng tin cậy" - bà Thủy mỉm cười nhớ lại lần đầu gặp người đàn ông của đời mình.
Anh bộ đội ấy là thiếu úy Hà Đăng Ninh, 26 tuổi, đại đội trưởng đại đội 2 (tiểu đoàn 1). Anh quê Nghệ An, đi bộ đội từ năm 1971. Bắt gặp ánh mắt người lính, cô nữ sinh cứ nhìn vào đôi mắt ấy mà hát. 
"Mặt anh ấy đen sạm màu khói súng, nhìn sương gió lắm - bà Thủy cho hay - Anh ấy cũng như những người lính khác, ai cũng đeo bao đạn đầy người, súng AK vác vai sẵn sàng chiến đấu. Với sinh viên thì đó là hình ảnh rất đẹp".
Biểu diễn xong, tiểu đoàn phân công đại đội của anh tiếp khách. Họ bắt chuyện với nhau. Kể chuyện xưa, ông Ninh cười bảo: "Khi nhìn thấy cô ấy, tôi đã rất ấn tượng. Con gái Hà Nội mà ăn mặc giản dị lắm. Trong đoàn có mỗi cô ấy mặc quần áo bộ đội, đi dép cao su".
Khi về Hà Nội, hằng tháng Thu Thủy đều trích tiền học bổng mua tem và gửi thư lên biên giới. Tình cảm của họ lớn dần theo những cánh thư.
Ông Hà Đăng Ninh (phải) chỉ huy đơn vị chiến đấu tại biên giới Lạng Sơn tháng 2-1979 - Ảnh: MY LĂNG chụp lại
Ông Hà Đăng Ninh (phải) chỉ huy đơn vị chiến đấu tại biên giới Lạng Sơn tháng 2-1979 - Ảnh: MY LĂNG chụp lại
Xung phong lên chiến địa vì chồng
Tháng 1-1983, họ cưới nhau. Cưới xong, anh vẫn biền biệt cắm chốt trên biên giới, Thủy vẫn ở Hà Nội. Ra trường, được phân công về Hải Phòng dạy nhưng cô xung phong lên Lạng Sơn để gần chồng hơn. 
Cô dạy ở Trường cấp 3 Lộc Bình, thị trấn Lộc Bình, Lạng Sơn, gần biên giới. Thị trấn này lúc đó tan hoang, giáo viên phải ở trong mấy cái lán trống hoác. Còn anh đóng quân ở Đồng Đăng. Hai người vẫn cách nhau 40km.
"Mỗi tháng, nếu quân Trung Quốc không giở trò thì chồng qua thăm vợ một lần, rồi tháng sau tôi sang thăm lại. Trường tôi gần cửa khẩu Chi Ma cũng rất căng thẳng, nhưng dù sao vẫn cách cửa khẩu 20km chứ không giáp biên như đơn vị chồng tôi" - bà Thủy tâm sự.
Lấy nhau hơn một năm, đến tháng 3-1984 Thủy có thai. Cô hào hứng lên đơn vị để báo tin cho chồng lúc đó là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1. 
"Tôi lên tối hôm trước, trưa hôm sau tôi đang cùng bộ phận hậu cần nấu cơm thì nghe pháo nó bắn sang. Bộ đội đánh kẻng, tất cả rầm rập xách súng chạy vào các vị trí trong giao thông hào chuẩn bị chiến đấu" - bà Thủy kể.
Lúc đó, tiểu đoàn trưởng Hà Đăng Ninh đã chạy lên đỉnh đồi chỉ huy bộ đội chiến đấu. Là vợ người lính, không sợ hãi bỏ chạy, Thủy vội vàng cùng hai nhân viên công vụ chạy xuống nhà tiểu đoàn, khiêng những hòm đạn đựng tài liệu quan trọng bên trong để chuyển lên hầm trên đỉnh đồi. Cứ một người khiêng một thùng.
Tiểu đoàn trưởng Ninh sau khi triển khai chiến đấu xong, chạy xuống lấy một khẩu AK ra hướng dẫn vợ sử dụng. Tiểu đoàn trưởng Ninh dặn vợ cứ chắc tay súng trụ ở nhà tiểu đoàn, rồi chạy lên đồi tiếp tục chỉ huy bộ đội. 
"Tôi không sợ chết. Nhìn anh em đang lao vào sẵn sàng chiến đấu, chồng phải chỉ huy bộ đội, tôi cầm chặt súng, sẵn sàng bắn trả đến viên đạn cuối cùng nếu nó tràn sang. Nếu phải hi sinh thì vợ chồng tôi cùng hi sinh ở trận địa" - bà Thủy nói.
Hôm ấy, quân Trung Quốc nã pháo vào đội hình đóng quân của tiểu đoàn 1 suốt vài giờ. Phát hiện dưới chân đồi có một đoàn xe chở tân binh mình đi lên, kẻ thù đã nã pháo vào đoàn xe. Tình hình hết sức căng thẳng...
Hôm sau, về đến trường, cô Thủy mới biết mình bị sẩy thai. "Tôi đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn, gần như chết rồi! Mấy hôm sau, khi cấp báo động đã giảm xuống, anh xin phép đơn vị về thăm thì mọi thứ đã xong. Tôi không hề hối hận. Không hề nghĩ đến lý do vì bê mấy hòm đạn tài liệu đó" - bà Thủy trải lòng.
Cô sinh viên Lê Thu Thủy (đầu tiên, từ trái qua) cùng sinh viên Trường ĐH Sư phạm Hà Nội lên biên giới hát động viên bộ đội năm 1979 - Ảnh: MY LĂNG chụp lại
Cô sinh viên Lê Thu Thủy (đầu tiên, từ trái qua) cùng sinh viên Trường ĐH Sư phạm Hà Nội lên biên giới hát động viên bộ đội năm 1979 - Ảnh: MY LĂNG chụp lại
"Sĩ quan cơ động" của tiểu đoàn 1
Tháng 5-1984, tình hình toàn tuyến biên giới rất căng thẳng. Pháo quân Trung Quốc cứ bắn theo giờ. "Lúc đó xác định nó lại đánh sang mình lần nữa. Trường tôi ai cũng có sẵn balô gói ghém đồ đạc, có lệnh là sơ tán ngay" - bà Thủy kể.
Lo lắng cho chồng, Thủy quyết tâm lên đơn vị anh xem thế nào. Xuống thị xã Lạng Sơn, ập vào mắt cô là cảnh tượng tan hoang như chiến trường. Cô tìm cách lên Đồng Đăng, nhưng lúc đó không có xe lên Đồng Đăng nữa. Dọc tuyến đường đi lên đã bị pháo Trung Quốc bắn chặn.
Đến tháng 2-1985, Hà Đăng Sơn, con trai đầu lòng của họ, chào đời. "Đẻ nó năm 1985, đến cuối năm 1987 mới chuyển về Hà Nội nhưng tôi vẫn địu con lên thăm bố. Bộ đội gọi nó là lính trẻ nhất tiểu đoàn 1. Còn tôi được tặng danh hiệu: sĩ quan cơ động của tiểu đoàn 1" - bà Thủy cười kể.
37 năm kết hôn, họ đã cùng nhau đi qua lửa đạn chiến tranh, vượt qua sóng gió của cuộc đời với nỗi đau tận cùng khi con đầu bất ngờ ra đi vì tai nạn. Giờ đây, ở tuổi xế chiều, họ cùng tận hưởng hạnh phúc bình dị bên nhau.
Ôn lại thời máu lửa hào hùng, đôi vợ chồng tóc điểm bạc vẫn nói sẵn sàng cầm lại súng ra chiến trường nếu có kẻ thù xâm lược. "Vợ chồng chúng tôi sẽ lại cùng chiến đấu và nguyện cùng hi sinh để vệ quốc".
Năm tháng tự hào nhất
"Chúng tôi đã thăm lại cột mốc 16 ở Đồng Đăng ngay cửa khẩu Hữu Nghị, là nơi ngày xưa đơn vị anh đóng quân. Xung quanh cột mốc ngày đó đầy mìn chống tăng nhưng vợ chồng và cậu công vụ vẫn chẳng sợ hãi, ra cuốc đất tăng gia trồng đỗ tương cho đơn vị… Đó là giai đoạn rất gian nguy nhưng tự hào nhất trong cuộc đời chúng tôi", bà Lê Thu Thủy nói.
Theo MY LĂNG (TTO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null