Trăm năm giữ sắc đỏ nhang quê

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Không chỉ được xem là làng nghề lâu đời nhất Thành phố Hồ Chí Minh, làng nhang Lê Minh Xuân còn là một trong những cơ sở sản xuất nhang lớn nhất khu vực Nam Bộ. Chị Nguyễn Cát Bụi Thúy (Tổ trưởng hợp tác se nhang ấp 2, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh) cho biết, nghề này lúc thịnh, lúc suy nhưng cái hay là khó đến mấy, nhiều người vẫn bám trụ theo những cách riêng. Tuyến đường Mai Bá Hương, Thích Thiện Hòa thuộc ấp 2 nhờ vậy mà gần 100 năm nay vẫn đượm sắc vàng đỏ của nhang quê thơm lừng.
Nghề làm nhang đem lại cuộc sống ổn định và giúp người dân thêm gắn kết, hòa đồng.

Nghề làm nhang đem lại cuộc sống ổn định và giúp người dân thêm gắn kết, hòa đồng.

Thoát nghèo nhờ nhang

Ngày chị Thúy còn bé, nghề làm nhang đã xuất hiện ở xã Lê Minh Xuân. Trong làng, có vài người đi học nghề từ nơi khác về, mày mò thêm cho thuần thục rồi tự mở xưởng. Sau giờ đốn mía, làm cỏ, thấy nghề làm nhang là lạ, nhiều người tò mò học theo, đem về nhà làm thêm. Mỗi người một công đoạn, dọc con đường đâu đâu cũng sắc đỏ, sắc vàng của chân nhang, bột áo. Làng nghề lớn lên mỗi ngày nhờ sự hăng say ấy. Mẹ chị Thúy thấy hay cũng tập tành, tích góp kinh nghiệm rồi nhận nguyên liệu về nhà gia công, ăn lương. Chắt chiu mãi, về sau đủ tiền mở xưởng làm nhang nhỏ ngay tại nhà, tạo thêm nguồn việc làm cho người dân trong ấp. Chị Thúy học từ mẹ từng công đoạn làm ra cây nhang sao cho đẹp và thơm lâu nhất. Chưa lên 17 tuổi, chị gom hết tiền dành dụm được, vay mượn thêm để mở xưởng làm nhang.

Chị Thúy kể, hồi xưa làm gì có máy móc như bây giờ, cái gì cũng thủ công, cực nhưng vui lắm. Nhờ lanh lẹ, khéo tay, chị làm nhang giỏi có tiếng trong làng, ngày càng nhiều người tìm đến học nghề. Cũng thất bại mấy phen rồi gầy dựng lại, vậy mà, chưa bao giờ chị nản chí. Nhờ làm nhang, chị có tiền lo cho các em, sau này là các con có bữa no, được đến trường đàng hoàng. Hiện giờ, xưởng nhà chị Thúy là cơ sở làm nhang lớn nhất làng nghề, ngày mấy chuyến hàng đi khắp nơi. “Ai hỏi nghề, tôi chẳng ngại, hướng dẫn tận tình. Nghề mình cũng được học từ người đi trước, giờ có người cùng làm thì sao phải giấu. Người nào muốn học cứ tới xưởng gặp, tôi chỉ không thiếu thứ gì, làm hư tôi chịu. Cần việc thì ở lại xưởng làm, muốn nhận về nhà gia công thì tôi đưa nguyên liệu. Nhờ làm nhang mà bà con ấp 2 vượt nghèo, có cuộc sống ổn định. Cái nghề này lạ lắm, làm rồi khó bỏ dù người và nhà cửa lúc nào cũng lấm lem”, chị Thúy trò chuyện trong khi đi kiểm tra mấy mẻ chân nhang vừa phơi xong một nắng.

Cái nghề kéo bà con trong xã sát lại gần nhau, người này giúp đỡ, chỉ dạy người kia, làm sao để làng giữ nếp, người giữ cuộc sống ổn định, thoát nghèo. Bà con ở Lê Minh Xuân hay nói, nhờ có nhang mà đời họ thêm sắc màu, hương thơm. Giai đoạn chuyển từ làm nhang thủ công sang làm máy, các chủ xưởng bàn nhau, trích tiền hỗ trợ máy móc gia công tại nhà cho những hộ nhỏ lẻ. Ai không đủ tiền sắm có thể lấy máy và nguyên liệu về làm, hoàn thành sản phẩm trừ dần vào lương. Vậy nên, chẳng một ai có lý do bỏ nghề. Chính quyền địa phương cũng hỗ trợ các hộ đặc biệt khó khăn bám nghề bằng nhiều cách, từ vật chất đến tinh thần.

Xưởng nhang của chị Thúy làm gần 30 năm nay, lúc nào cũng rộn ràng, không đợi Tết. Mỗi ngày, chị cung cấp ra thị trường 4.000 đến 6.000 thiên nhang (mỗi thiên 1.000 cây nhang), chủ yếu bỏ sỉ cho bạn hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh và cả khu vực miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ. Dịp cận Tết, các ngày rằm lớn trong năm, xưởng lúc nào cũng tăng ca, gần 40 nhân công làm miệt mài chưa đủ trả đơn hàng. Chị Thúy còn giao thêm nguyên liệu cho hơn 50 người về nhà gia công mới đủ số lượng giao đi các nơi. Tính ra, xưởng có cả trăm thợ. Thợ làm nhang tuy không rủng rỉnh nhưng chỉ cần chịu khó, mỗi ngày cũng kiếm được gần 300 nghìn đồng. Vào mùa cao điểm, thu nhập sẽ tăng thêm. Với khu vực ngoại thành chủ yếu sống dựa vào vụ mía, làm cỏ, tiền thu về từ nghề nhang đã giúp cải thiện đời sống của bao gia đình.

Nương nhau giữ nghề

Ngày còn trẻ, tay khỏe, mắt tinh, thấy hàng xóm đi học làm nhang, nhận về nhà gia công sau vụ mía, bà Trần Thị Nở (71 tuổi) cũng làm theo cho vui. Không ngờ, gắn bó với nghề đến tận hôm nay. Ngày trước, bà nhận nguyên liệu về nhà se nhang, mỗi thiên được mấy ngàn đồng tiền công. Giờ già cả, sống một mình, thui thủi mãi cũng buồn, bà xin vào xưởng nhang làm thuê, vừa kiếm thu nhập vừa có người trò chuyện, sẻ chia. Bà Nở phụ trách công đoạn bó nhang thành phẩm, ngày vài tiếng cũng đếm được 300 - 400 thiên, mỗi thiên nhận 500 đồng. Nghề này làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu nên hôm khỏe ngồi nhiều, bữa mệt xin nghỉ cũng chẳng ai rầy la, bà thấy thoải mái nên làm hoài không chán.

Bà Nở nói, làm nhang so với làm mía, làm cỏ chẳng cực bằng, chỉ là mình có thương nghề để theo đường dài hay không. Mà đã thương rồi thì bỏ đằng nào, nghỉ vài ngày đã nhớ. Đặc biệt nghề này không kén thợ, tuổi nào cũng được nhận, miễn cần cù, chịu khó. “Mấy công việc tôi làm con nít học vèo là xong, khó khăn gì đâu. Khó là ở công đoạn trộn bột áo sao cho khéo, cho chất lượng chứ những phần còn lại ai thay nhau làm cũng được. Thấy xã mình còn gắn bó với cây nhang, tôi mừng vì có cái nghề để đi đâu cũng khoe với mọi người. Mấy tuần giáp Tết, nhìn cả con đường đỏ rực, vàng ươm, thích lắm. Thi thoảng, lại có mấy đứa nhỏ rồi du khách trên thành phố ghé xuống hỏi thăm, chụp hình, xin làm thử một lúc. Nghề của xã mình được duy trì, bà con đỡ khổ, lại có nhiều dịp trò chuyện, gắn kết với nhau”, bà Nở thoăn thoắt đôi tay, giọng không che niềm háo hức.

Gần 20 năm cặm cụi se nhang, chị Trần Thị Huyền (42 tuổi) thích luôn mùi bột áo. Thi thoảng, trong lúc máy trộn bột, chị lặng im cảm nhận mùi vụn gỗ, mùi trầm, quế lan tỏa quanh chỗ ngồi. Lúc chị Huyền còn trẻ, ai cũng hỏi sao không kiếm việc gì vui vui mà làm, suốt ngày ngồi se nhang. Người ngoài nhìn vào thấy chán, thế nhưng, chị Huyền thì không. Chị thích công việc mình làm, từ lúc còn tự tay nhào bột áo đến mỏi nhừ tay chứ nói gì đến lúc được làm máy thảnh thơi như bây giờ. Nhìn từng cây nhang vàng ươm, thơm tho nằm trên giá chuẩn bị đi phơi, chị hay nhoẻn miệng cười. Làm nhang khiến cuộc sống của chị Huyền nhẹ nhàng hơn. Se xong, xếp nhang trên giá, bận mấy cũng phải làm kỹ, không thì nhang gãy, phải làm lại từ đầu. Lúc rảnh tay, chị Huyền học thêm các công đoạn khác để khi ai đó nghỉ, xưởng cần chị sẽ choàng việc. Học thêm là cách chị tìm hiểu sâu về nghề truyền thống của làng.

Nhớ lại đợt dịch Covid-19 vừa qua, khó khăn đủ bề mà bà con trong xã vẫn nương nhau làm nhang. Dịch được kiểm soát, thị trường hút hàng nhưng cái khó chưa rời xa. Nguyên liệu tăng, giá nhang vẫn như cũ, các chủ xưởng chấp nhận chịu lỗ mấy vụ, kiếm đơn hàng về cho mọi người cùng làm, kiếm tiền trang trải sau gần hai năm liền ngừng hoạt động kinh doanh. “Nhiều người không hiểu, nói là, lỗ làm chi làm hoài, bộ bị khùng hay gì. Không phải đâu. Tại vì công ăn việc làm của mình, mình đã đầu tư vô đây quá nhiều, mấy tỷ bạc rồi, máy móc quá nhiều giờ bỏ sao đành. Rồi mấy cô chú, chị em cả mùa dịch vẫn gắn bó thì tình hình ổn hơn mình phải tìm cách vực lại cuộc sống cho họ chứ”, chị Thúy trải lòng về giai đoạn tưởng chừng không thể vượt qua trong hành trình làm nhang tại làng.

Cây nhang của làng nghề truyền thống Lê Minh Xuân đặc biệt ở mùi hương, do cách các hộ dân làm bột áo. Muốn nhang được chuộng, nguyên liệu hay thợ gia công đều phải chọn kỹ như nhau, nếu không, thành phẩm sẽ dễ mắc lỗi, khách hàng mắng vốn, đền tiền. Nguyên liệu bột áo nhập từ Bình Dương, tăm nhang nhập từ Hà Nội, keo nhập từ Gia Lai, mỗi nơi một thứ, chọn thật kỹ rồi cứ thế mà nâng niu từng mớ bột, cây tăm. Nhờ có nghề nhang mà nhiều người sửa được cái nhà dột lâu năm, vun vén tiền cho con ăn học, sắm sửa này kia. Họ mắc nợ ân tình nên cứ vậy miệt mài trong nắng bụi se nhang.

Có thể bạn quan tâm

70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ-Bài 16: Kỳ tích điện hóa toàn bộ Điện Biên Đông

70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ-Bài 16: Kỳ tích điện hóa toàn bộ Điện Biên Đông

Có lẽ, ít ở đâu trên nước ta, quyết tâm đưa điện về bản lại cao như ở huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Địa bàn nghèo nên không thể cấp cho dân “cá”, muốn cấp “cần câu” cũng khó nên chính quyền chọn cách đưa cho dân “mồi câu”. “Mồi câu” ở đây chính là điện lưới quốc gia.
Tôi đi chiến dịch Điện Biên

Tôi đi chiến dịch Điện Biên

(GLO)- "Tôi có cảm tưởng như cả đất nước, tất cả các dân tộc đang hành quân đi giành lấy độc lập tự do. Làm sao mà có thể đè bẹp ý chí của cả một dân tộc yêu nước. Tôi vô cùng tự hào là người chiến sĩ Ê Đê thuộc Tây Nguyên miền Nam duy nhất cũng có mặt trong đoàn quân ấy".

Giải cứu thú rừng

Giải cứu thú rừng

Những đôi chân mải miết trên từng ngóc ngách, đôi tay rớm máu gỡ lấy những chiếc bẫy thú. Trọng trách của họ là bảo vệ, giải cứu thú rừng mắc bẫy trong những cánh rừng già trên dãy Trường Sơn ở Quảng Nam.
70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - bài 14: Đại thủy nông Nậm Rốm - biểu tượng của thanh niên

70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - bài 14: Đại thủy nông Nậm Rốm - biểu tượng của thanh niên

Cánh đồng Mường Thanh được dòng sông Nậm Rốm tưới tắm bồi đắp hàng nghìn năm. Nhưng cánh đồng Mường Thanh thực sự gieo trồng có hiệu quả tăng đột biến là nhờ vào Đại công trình thủy nông Nậm Rốm. Đó là công trình hình thành từ bàn tay, khối óc của lớp thanh niên xung phong (TNXP) hơn 60 năm trước.
70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 13: Mường Thanh - Kho lúa giữa trời

70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 13: Mường Thanh - Kho lúa giữa trời

Đứng ở Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ trên Đồi D1, phóng tầm mắt về phía tây là một màu xanh trải dài bất tận của cánh đồng Mường Thanh. Từ trận địa đầy bom đạn, hầm hào, Mường Thanh trở thành vựa lúa lớn nhất Điện Biên, tạo ra những hạt gạo vang danh cả nước…
Phong vị Sài Gòn

Phong vị Sài Gòn

Có những người xa Sài Gòn hàng chục năm, hỏi rằng Sài Gòn những nét xưa có còn? Sài Gòn thế kỷ 21 có gì hay? Trong khi ấy, có những người xa Sài Gòn chỉ ít năm thôi cũng đã hỏi thành phố có gì mới?
Gặp nhân chứng sống đẩy lùi 'bóng ma' Fulro

Gặp nhân chứng sống đẩy lùi 'bóng ma' Fulro

Những ngày đầu đất nước thống nhất, Tây Nguyên vẫn chưa được yên ổn bởi sự quấy phá của tổ chức phản động Fulro. Bộ Công an đã tăng cường một tiểu đoàn tinh nhuệ gồm 310 quân vào Tây Nguyên. Một nhân chứng sống trực tiếp chiến đấu đã chia sẻ cùng Tiền Phong cuộc chiến đẩy lùi “bóng ma” Fulro.
Những “lá thư” khắc khoải đôi bờ

Những “lá thư” khắc khoải đôi bờ

(GLO)- Trong những bưu thiếp đơn sơ và bị kiểm duyệt gắt gao từ phía chính quyền bờ Nam chứa đựng biết bao điều mà niềm nhớ nhung khắc khoải của người xa xứ đã lầm lỡ nghe theo lời dụ dỗ và ép buộc của kẻ thù mà rời xa quê hương.

Ký ức 30/4

Ký ức 30/4

Đã 49 năm trôi qua, kể từ Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2024), nhưng với những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” ký ức ngày 30/4/1975 không thể nào quên.
Gia Lai căng mình ngăn lửa, giữ rừng

Gia Lai căng mình ngăn lửa, giữ rừng

(GLO)- Giữa tiết trời nóng nực hơn 40℃, trên những ngọn núi, triền đồi, lực lượng bảo vệ rừng Gia Lai vẫn kiên nhẫn sải bước tuần tra. Khó khăn của thực tại là động lực để họ vượt lên nhằm ngăn ngừa "bà hỏa", giữ màu xanh của rừng cho mai sau.

Khát vọng phồn vinh

Khát vọng phồn vinh

Đất nước ta đã bước qua cánh cửa đói nghèo nhưng sự thịnh vượng của dân tộc vẫn còn ở phía trước, rất cần sự chung tay góp sức của mọi con dân nước Việt, nhất là thế hệ trẻ.