Sống cho thỏa "đời nổi trôi"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Xuất hiện trên cuộc đời này, có người bám chặt ở mặt đất phố thị, có người kết dính ở làng mạc, có người neo vào thảo nguyên, lại có người lưu lạc theo mặt nước để sống và gửi gắm lần đời duy nhất như nhau này. Người chọn phố thị thì ở trạng thái định cư-đó là điều quen thuộc, bình thường. Nhưng người du mục thì rày đây mai đó thì vượt ra khỏi suy nghĩ quen thuộc của chúng ta về “định cư”, “chỗ ở”, “chỗ sinh tồn”, “căn nhà”.

Người theo con cá để tồn tại càng như vậy. Chỗ nào có mặt nước, hình thành nên hồ họ sẽ đến đó. Có cá họ đến, hết cá họ đi, đi tiếp, tìm mặt nước. Tôi gọi trạng thái ký gửi vào mặt nước suốt cuộc đời này bằng cái từ có lẽ chưa ai dùng, là “Du ngư” vậy.  Dân đánh cá trên biển đi đánh gì rồi cũng “về bờ”, “vào bờ”-làng và gia đình họ ở trên bờ đó. Còn dân sông hồ nước ngọt chốn núi rừng này thì đưa cả gia đình đi trong hành trình “Du ngư” của mình. Mà hành trình du ngư thì không có điểm dừng, chỉ đến khi mãn đời.  Họ bảo họ yêu cuộc sống trên mặt nước và quê hương họ là mặt nước, bất kể đó là mặt nước ở đâu, đến mức không còn phân biệt nữa về ý niệm “hành chính”.

 

Chèo thuyền di chuyển qua các “nhà” hàng xóm. Ảnh: N.H.T
Chèo thuyền di chuyển qua các “nhà” hàng xóm. Ảnh: N.H.T

Trong những xó núi, xó rừng, lũng sâu có “nước” bỗng dưng thấy họ đáp xuống. Rất tự nhiên, như cá tìm nước, chim tìm trời, tình nhân tìm tình nhân. Lại có lúc những căn nhà của họ ở giữa hồ nước mênh mông rộng cả vài ngàn ha. Họ chơi vơi giữa trời nước bao la đó. “Mái nhà” và làng bè của họ cô độc. Hoặc là họ nghĩa khí, ngạo nghễ trước kiếp sống đó. Nước là môi trường sống của họ, không gian sống của họ. Con cá dưới nước cho họ cơm áo. Thả lưới, giăng câu, bơi lặn cho họ tình yêu cuộc sống. Họ không cần đất đai, nên cũng không bao giờ tranh chấp với ai về đất đai. Họ vô sản, nếu theo nghĩa đã là người thì phải “có nhà” và chỉ dấu của sở hữu là sổ hồng, sổ đỏ. Nhưng họ có cả đất trời. Thế  giới của họ lạc ra bên lề, không nằm trong trực quan tâm hay hướng đến của đại chúng nên trong tự điển cho đến thế kỷ XXI vẫn không có từ chỉ về trạng thái sống, kiểu sống này. Nhưng họ cũng là con người, cũng tham dự vào thế trần như chúng ta.

Chưa hẳn sống trong một căn biệt thự xa hoa ở Nam Sài Gòn tươi vui hơn trong căn nhà bè trên nước ở một hồ sâu trong rừng. Chưa hẳn sống trong một căn phố ở đường Đồng Khởi TP. Hồ Chí Minh hay khu 36 phố phường cổ Hà Nội an toàn hơn mái nhà bè kia. Chưa hẳn trước nắng mưa, bão tố từ trời, những mái nhà ở phố vững chãi hơn căn nhà bè hai bên vách núi…        

*
Họ là người dân nước Việt của tôi. Nơi mặt nước đó, đời họ nối sang đời con, đời cháu, đời chắt. Nhiều người đã không còn để ý đến bổn xứ nữa. Họ chỉ nghe nói ông cha thuở xa xưa là dân hạ lưu Mê Kông, những Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…, theo con nước mà trôi ngược sang biển hồ Tonlé Sap bên Campuchia, rồi ngược lên miền thượng Tây Nguyên này, với những lòng hồ Trị An, La Ngà, Ia Ly, Sê San, Hàm Thuận, Đa Mi, Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Buôn Tuasrah, Đak Tih, Đại Ninh, Sêrêpôk… Tôi thường ở với họ. Tôi sống ở phố, nhưng những kỳ lễ lạt, họ hay gọi  điện bảo tôi: “Vào đón lễ trong này đi. Đi Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Hà Nội mà làm gì!”.

Họ có khả năng sinh tồn và cảm nhận về hạnh phúc theo kiểu của họ. Họ có cách để có một tổ ấm, mái nhà theo kiểu mà chỉ họ mới hiểu được trời đất ở nơi đó. Khi đặt chân xuống một vùng mặt nước, việc đầu tiên là cắm một cái lều trên bờ để ở tạm. Những chiếc xuồng và ngư cụ được thả xuống mặt nước. Vừa đánh bắt, họ vừa dành thời gian tìm hiểu, khảo ngẫm, “đọc” cho ra đặc điểm thủy lưu, khí động học, gió lành, gió độc, dòng nóng, dòng lạnh, ánh sáng, bóng tối, hướng gió đi, giờ gió ngủ… Khi đã nắm trọn thiên nhiên trong tay, họ bắt đầu cất nhà bè để sống ổn định. Nguyên tắc “xây dựng nhà” trong thế giới thủy dã này là: Tránh đường nước chảy ở dưới và hướng gió đi qua ở bên trên. Nên bao giờ cũng thấy nhà bè liền lạc lại với nhau, và những “làng bè” hình hành theo một trục nào đó, cho dù giữa một vùng non nước mênh mông. Một tính toán khá khoa học và tổ chức chặt chẽ, trật tự đến ngỡ ngàng. Vì vậy mà làng bè nào cũng luôn lớp lang, như có bàn tay quy hoạch. Chỗ ở đó, nước không sâu hơn bốn mươi mét, và cũng không cạn hơn thế, thì mọi sinh hoạt, lưu thông mới thuận lợi. Nếu không như thế, vùng nước chỗ cất nhà, lập làng sẽ không ấm, mà nước phải ấm mới tốt cho sức khỏe và không bao giờ có muỗi. Đó là chỗ quanh năm dù mùa nào thì cũng đều ngày mát, đêm ấm. Thêm nữa, thế thì nhà bè mới khỏi đong đưa. Họ bảo sống kiếp giang hồ như họ sợ nhất là gió lộng (giới “xã hội đen” phố thị đánh cắp khái niệm đẹp đẽ của từ “giang hồ” vốn nghĩa là ngao du, tận hưởng, sống giữa trời đất, người đi qua nhiều sông núi… để làm sang, rồi dần làm méo mó từ “giang hồ” tự lúc nào không hay!). Giang hồ mơ mộng, nhưng không ai liều mình cất lẻ loi một căn nhà giữa lòng nước bao la kia để hưởng cho trọn vẻ đẹp thiên nhiên này cả. Nếu có ngư phủ nào đó cá biệt, quyết ở đơn lẻ, thì căn nhà anh ta cất cũng khép sâu vào vách núi, tránh những nguyên lý tự nhiên dễ gây hại ở trên.

Kết cấu nhà của họ là hệ thống phao bằng các bè lồ ô được chặt trên những cánh rừng lồ ô quanh đấy đem về ngâm tẩm để tăng độ bền. Nhiều mảng bè như thế được kết lại làm “nền nhà”, rồi dựng nhà trên đấy. Gần đây, xã hội tiến triển, thế là vật liệu “nền nhà” được “lên đời” bằng những thùng nhựa composite dày rỗng khi người ta đã hút hết hóa chất, hoặc thùng phuy sắt nhựa đường đã lấy xong nhựa. Tuy nhiên, để căn nhà nổi êm ái, cũng buộc phải kết hợp hệ thống phao này với phao bè lồ ô-đặt phía trong kết cấu “nền”. Bè tre có đặc dụng nổi ngầm, phao nhựa sắt có đặc dụng nổi hẳn lên mặt nước. Kết hợp cả hai, thì trung hòa được độ tĩnh tại, làm vững chắc cả khối nhà, chống chọi được gió bão, sóng xô, con nước. Khung sườn nhà bằng gỗ, sắt. Vách nhà bằng ván xẻ mỏng, hay thân lồ ô được đập dập kết lại, hoặc bằng miếng nhôm, tôn. Phía ngoài của vách ván, hoặc lồ ô kia đắp lên một lớp tôn hoặc bạt nhựa để luôn ấm bên trong, và bảo vệ lớp gỗ hay lồ ô đó. Nhà chắc, nhưng phải nhẹ. Tùy theo số người trong gia đình mà nhà bè cần làm to hay bé. Có nhà hai ba thế hệ chung sống, có nhà của vợ chồng mới cưới, có nhà của người mới trưởng thành và cả nhà của người độc thân.

*
Người sống “giữa bốn bức tường đô thị” mà bước xuống căn nhà họ ở sẽ cảm giác về một không gian sống thanh khiết vô bờ. Mái nhà bè của người du ngư vững chãi, an lạc, xa xỉ khác thường lắm, mà có khi ta phải mơ tưởng để được sống, được bằng. Thói thường đám đông, cũng có khi nhìn cuộc sống bằng tọa độ khác, mà tưởng rằng cảnh này là tha nhân đang chịu đựng, kham khổ, tạm bợ, nổi trôi. Nhưng đời người thoáng chốc, sống đâu mà chả “tạm”, hỡi con người!

Bút ký của: Nguyễn Hàng Tính

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.