(GLO)- Giữa những ngày tháng Tư lịch sử về khu 7 năm xưa, trong hành trình của mình chúng tôi không chỉ ôn lại những ngày tháng hào hùng, sẻ chia thực tại mà còn đau đáu mong ước ở tương lai. Qua khỏi cầu Đak Pơ Kơ, chúng tôi đã tới căn cứ Sơ Ró anh hùng năm nào.
Đi cùng năm tháng
Là quê hương của người Bahnar yêu tự do nên khu 7 trong chiến tranh và Kông Chro hiện nay là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Nằm trong cái nôi Tây Sơn Thượng đạo, khu 7 nổi tiếng với những di tích lịch sử: Kho tiền, hồ nước ăn, nền nhà ông Nhạc (Nguyễn Nhạc), nối tiếp những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong xây dựng hòa bình hôm nay, để lại dấu ấn đặc biệt trong dòng chảy thời gian, nhất là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng.
Có cảm giác không khí oi nồng không làm cho câu chuyện kém phần hứng khởi và thời gian cũng chẳng thể tàn phá trí nhớ minh mẫn của người cán bộ lão thành, người đảng viên hơn 50 năm tuổi Đảng, đó là bok Truk, người làng Sơ Ró-xã Sơ Ró. Bok Truk tham gia cách mạng từ năm 1948, năm 1959 được kết nạp vào Đảng, năm 1960 làm Bí thư xã, năm 1971 là Huyện ủy viên phụ trách hợp tác miền núi, sau năm 1973 ra Bắc an dưỡng, năm 1975 làm Bí thư 3 xã Đông sông Đak Pơ Kơ cho đến khi về hưu…
Cầu Đak Pơ Kơ. Ảnh: L.N |
Lần giở quá khứ, bok Truk nhớ như in những thời điểm quyết liệt, rừng núi bị bom đạn kẻ thù đốt cháy, không có rẫy có nương bà con sang cả bên Ya Hội (Đak Pơ hiện nay) phát rẫy trồng mì để kiếm cái ăn. Thiếu đói phải ăn măng rừng, củ mài, muối lại càng không, người già, trẻ con đói vàng cả mắt, trông rất tội nghiệp. Ký ức bok Truk lại đưa chúng tôi về với những cán bộ cách mạng, thời chống Pháp có các cán bộ người Kinh là Nay, Phung; Ba Tri, Lê Tam trong chống Mỹ và còn nhiều người khác nữa. Nhiều người như bok Đinh Ơi năm 1970 trong một lần công tác, bị máy bay Mỹ oanh tạc, bok dùng ba lô, tấm đắp và thân mình che miệng hầm chống lựu đạn cay, bảo vệ gần 20 người dân ẩn nấp và bok đã hy sinh vì trúng đạn rốc két của máy bay giặc. “Thức đêm mới biết đêm dài...”, lòng người Bahnar Sơ Ró cũng như khu 7 đối với cách mạng mãi còn lưu truyền sử xanh, mãi còn khiến bao người xúc động. Sau 1954 bị kẻ thù bức hại khốc liệt mà bà con vẫn bí mật san sẻ từng bát gạo cho cán bộ ta, lại còn nhắn nhủ: “Anh em ăn gạo của làng, nếu bị địch bắt thì đừng khai báo mà làm hại dân làng” (Lịch sử Đảng bộ huyện Kông Chro-Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2001).
Khu 7 ngày ấy trải theo thời gian giờ đã đổi thay nhiều mặt. Ban Cán sự Đảng bộ huyện 7 thành lập ngày 15-9-1954 trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng nơi đây đi từ chiến công này đến chiến công khác cho đến ngày toàn thắng năm 1975, khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh. Trải qua hơn 25 năm đổi mới phát triển và hội nhập, ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển khu vực phía Đông Nam của tỉnh.
Trăn trở trên quê hương cách mạng
Chúng tôi có mặt vào dịp hộ nghèo xã Sơ Ró được cấp bò. Đàn bò có đánh mã số buộc vào bờ rào, chờ người đến nhận. Đợt này, Công ty cổ phần Kinh doanh và Phát triển Miền núi tổ chức cấp 30 con bò (toàn huyện có 6 xã với 140 con), mỗi con trị giá 10 triệu đồng. Bò hơi gầy nhưng nếu chăm sóc tốt, chắc chắn chúng sẽ chóng lớn, khỏe mạnh. Linh-một thanh niên được hỗ trợ bò, tay dắt con bò nhảy cẫng lên vì lạ lẫm, phấn khởi cho biết: Nhà mình ở làng Kpoh. Nhà nghèo lại đông người, đất xấu làm ăn chật vật, cứ thiếu đói miết. Đợt này được hỗ trợ bò là có thêm cơ hội, thêm điều kiện để vươn lên thoát nghèo.
Lẽ thường người Sơ Ró ai cũng nhận thức phải nỗ lực vươn lên trước khi có người đến giúp. Vì vậy đồng bào luôn chăm chỉ làm ăn, chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Bây giờ là thời điểm bà con thu hoạch vụ Đông Xuân, chuẩn bị sản xuất vụ mùa. Mì chặt khúc phơi khô lăn lóc trên nhiều khoảng đất trống bằng phẳng. Xe mua mì len lỏi vào đến các làng Kpoh, Sơ Ró, Hơ Ya, Groi. Nhưng giá mì đang hạ, chỉ khoảng 3.300-3.400 đồng/kg khô, giảm đến gần 2.000 đồng/kg so với năm trước. Đã thế, thương lái lại còn “khó dễ” hạ giá cho rằng phải “tăng bo” nhiều chuyến khi qua cầu Đak Pơ Kơ làm đội chi phí vận chuyển. Nguyên là cây cầu này bị hư hại do ảnh hưởng bởi cơn bão số 11 năm 2009, giờ đây xe tải trọng lớn không được qua lại. Khói đốt rẫy (dọn rẫy) lưa thưa xuất hiện trên những vạt rừng chúng tôi đi qua. Nắng gắt nhưng gia đình nọ vẫn chăm chỉ vun từng gốc lúa rẫy, gốc mía. Năm nay, Đông Trường Sơn mưa sớm, bà con tranh thủ làm đất, chờ khi mưa nhiều, đủ ẩm thì đồng loạt xuống giống.
Thi công đường vào xã Đak Pling. Ảnh: L.N |
Bí thư Đảng ủy xã Đinh Văn Luei lật sổ cung cấp: Toàn xã có 610 hộ, 3.566 khẩu (chủ yếu là người Bahnar). Sau nhiều năm phấn đấu phục hóa, xã có gần 2.400 ha đất sản xuất nông nghiệp, chủ yếu trồng mì, bắp lai, lúa rẫy, mía, điều, đậu đỗ các loại. Đàn trâu, bò, dê ngựa trên 2 ngàn con, cùng đàn gia cầm hàng ngàn con. Hệ thống kênh mương thủy lợi tuy nhỏ lẻ nhưng cũng có tác dụng đáp ứng nguồn nước tưới phục vụ sản xuất cho người dân. Nhờ được đầu tư các công trình thủy lợi, tập huấn hướng dẫn sản xuất, áp dụng các mô hình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ giống cây-con, vật tư phân bón nên năng suất, chất lượng trong sản xuất nông nghiệp có tăng lên, đời sống của nhân dân được cải thiện căn bản, nạn thiếu đói triền miên đã không còn. Đi đôi, các tập quán lạc hậu, tệ nạn cũng được bài trừ, bãi bỏ. Giao thông đã nối liền trung tâm xã với các thôn, làng cả hai mùa mưa nắng. Chương trình xây dựng nông thôn mới đang được triển khai tích cực, tạo cho địa phương một luồng sinh khí mới.
Khát vọng đổi thay
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và các chính sách của Nhà nước, đặc biệt là từ sau năm năm 1988 tái lập huyện, cùng với sự huy động toàn lực của huyện, xã, các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát triển kinh tế-xã hội đã mang lại những kết quả nhất định. Ngoài các chương trình, kế hoạch của tỉnh, huyện, các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia như 132, 134, 167, 135,… được tích cực lồng ghép thực hiện, góp phần xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện điều kiện sinh hoạt, xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa.
Nhưng cũng như nhiều xã vùng sâu, vùng xa khác của khu 7 anh hùng, dẫu đã 37 năm sau ngày giải phóng mà Sơ Ró vẫn chưa thoát được nghèo. Toàn xã hiện còn trên 60% số hộ nghèo và tỷ lệ này của huyện là 47%, Kông Chro vẫn là huyện nghèo nhất, nhì tỉnh, tốc độ phát triển chậm. Chung quy cái sự nghèo của xã, của huyện cũng bởi địa hình chia cắt, thời tiết khắc nghiệt, đất đai bạc màu, hạ tầng yếu kém, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí hạn chế.
Trước thực tế này, đồng chí Nguyễn Phú Lộc-Phó Bí thư Huyện ủy Kông Chro cho rằng: Để phát triển không gì khác là phải làm thay đổi tận gốc rễ phương thức sản xuất và sinh hoạt của bà con nơi đây. Nghĩa là giúp cho bà con hình thành tập quán tích cực từ chuyện làm lụng, sinh đẻ, học hành, khám-chữa bệnh, đi lại, “tích cốc phòng cơ”,... Sự đồng lòng, chung tay của các cấp, các ngành, sự quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước sẽ là chìa khóa cho sự thành công. Trước mắt là nhanh chóng nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ địa phương, theo quan điểm của Bác Hồ “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư mạnh hơn về cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ và bền vững và có các chương trình, dự án hỗ trợ giúp dân xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất một cách ổn định, lâu dài, căn cơ. “Theo tôi, đây mới là những “đột phá” có tính chất quyết định. Còn đảm bảo quốc phòng-an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng thì huyện nhà hoàn toàn có khả năng đảm đương trách nhiệm”-đồng chí Nguyễn Phú Lộc phát biểu như một cam kết.
Ghi chép của: Thất Sơn-Lê Nam