Nữ tiến sĩ đam mê nhân giống lúa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Cha mẹ là nông dân, lại đông con nên chỉ có mình bà là người duy nhất được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng cũng từ đó, câu chuyện về cuộc đời một người phụ nữ với nhiều công trình nghiên cứu khoa học đồ sộ, quy mô mang tầm quốc gia và thế giới đã được viết.
 
GS-TS Nguyễn Thị Lang truyền lại kiến thức cho sinh viên
“Làm nghiên cứu như một nhà văn, phải có đam mê và tùy hứng mới thành công”, đó là phương châm sống của nữ GS-TS Nguyễn Thị Lang, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL, người vừa được Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, trao giải thưởng Trần Đại Nghĩa năm 2019, với công trình khoa học “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa phục vụ ĐBSCL”, cho ra đời nhiều giống lúa lai chịu mặn, chất lượng, năng suất cao, đáp ứng nhu cầu cho vùng ĐBSCL và cả nước. Đây cũng là người phụ nữ duy nhất ở miền Nam nhận giải thưởng này.
Giáo sư, tiến sĩ gốc nông dân
GS-TS Nguyễn Thị Lang còn là Trưởng Bộ môn Công nghệ sinh học, Trường Đại học Cửu Long (tỉnh Vĩnh Long), nhưng ít ai biết rằng, bà được sinh ra và lớn lên từ một gia đình thuần nông, đông anh em, ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Cha mẹ là nông dân, lại đông con nên chỉ có mình bà là người duy nhất được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng cũng từ đó, câu chuyện về cuộc đời một người phụ nữ với nhiều công trình nghiên cứu khoa học đồ sộ, quy mô mang tầm quốc gia và thế giới đã được viết.
Sau khi tốt nghiệp ngành Sinh học tại Trường Đại học Tổng hợp TPHCM, bà quay về phục vụ ở tỉnh nhà với cương vị là Phó Trưởng phòng Kế hoạch khoa học (thuộc Sở KH-CN tỉnh Bến Tre) trong suốt 10 năm. Đến năm 1990, bà theo chồng về Cần Thơ, làm việc tại Viện lúa ĐBSCL cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2016. Trong quá trình công tác tại Viện lúa ĐBSCL, bà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Nghiên cứu di truyền tính trạng sinh lý ưu thế lai trên lúa” vào năm 1994, đây cũng là một bước ngoặt phát triển quan trọng trong cuộc đời của bà.
Bởi từ dự án tiến sĩ này, bà được Viện lúa ĐBSCL cử đi học tập, nghiên cứu sau tiến sĩ (Postdoctor) và hoàn thành các chương trình sau tiến sĩ về di truyền - giống, di truyền phân tử, công nghệ sinh học, về chuyển gen và chuyển giao kỹ thuật ở các nước có nền khoa học tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản, Philippines. Đây là những vấn đề rất thiết thực đối với thực tiễn sản xuất và chất lượng lúa gạo xuất khẩu ở Việt Nam. 
Vốn có tư chất thông minh, siêng năng và ham học hỏi, được các nhà khoa học của các nước tiên tiến tạo điều kiện, bà không chỉ học tập, nghiên cứu, mà còn trực tiếp phụ trách nhiều công trình khoa học khác.
Bên cạnh đó, bà còn trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sau tiến sĩ cho nhiều nghiên cứu sinh ở Mỹ. Bà nhận lời mời nghiên cứu nhiều dự án của nước ngoài, cũng từ đó bà được hỗ trợ nhiều máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho Viện lúa ĐBSCL khi trở về Việt Nam. 
Từ những gì học được ở các nước có nền khoa học tiên tiến, bà tổ chức nhiều lớp học để chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy cho các viện nghiên cứu ở khu vực và thế hệ học trò của bà sau này. Về sau, Bộ Khoa học và Công nghệ đầu tư cho bà các đề tài cơ bản, rồi xây dựng bản đồ gen… Nối tiếp tích lũy mới thành công trong nghiên cứu, bà được Thủ tướng Chính phủ phong hàm Giáo sư vào năm 2009.
Nghiên cứu phải đam mê
Chia sẻ về những thành công hôm nay, GS-TS Nguyễn Thị Lang cho biết, đó là một quá trình cống hiến dài hơi cho khoa học từ nghiên cứu cơ bản đến chuyên sâu và ứng dụng thực tế. 
Để có được các giống lúa có tính năng nổi trội về khả năng sinh trưởng trong điều kiện đất phèn, thiếu lân, đạm, có khả năng chịu mặn cao, kháng rầy nâu, đặc biệt có khả năng phát triển tốt ở nhiều vùng, đạt năng suất cao, bà chọn giống lúa trời, dân gian gọi là “lúa ma” và bắt đầu từ việc cứu sống phôi, tạo gien, tạo giống, ứng dụng vào sản xuất - một chuỗi quá trình dài 25 năm...
Đến nay, GS-TS Nguyễn Thị Lang đã chọn tạo được 43 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia; trên 90 giống triển vọng, ứng dụng vào sản xuất cho 13 tỉnh ĐBSCL, miền Trung và miền Bắc.
Về công trình nghiên cứu vừa đạt giải Trần Đại Nghĩa, bà cũng không nghĩ rằng công trình của mình là 1 trong số 4 công trình khoa học vinh dự được Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trao giải, vì trước đến nay giải thưởng này chưa có tiền lệ về lĩnh vực nông nghiệp, nhưng bà cảm thấy rất vui, cảm động và trân trọng.
Trực tiếp giảng dạy cho nhiều thế hệ sinh viên, GS-TS Nguyễn Thị Lang nhận thấy, sinh viên bây giờ học nghiên cứu nhưng không làm nghiên cứu mà chỉ giao sao làm vậy, không chịu khó tìm tòi. Theo bà, người nghiên cứu thì đi tới đâu cũng nghiên cứu được. “Trước đây, tôi đi dọc đường thấy lúa hoang là nhảy xuống nhổ liền, không đánh mất cơ hội; thấy giống lạ mang về trồng, lai tạo để tìm ra gien quý, tích lũy...”, bà nói.
Bà nhắn nhủ với thế hệ trẻ, để thành công trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học, quan trọng là phải đeo đuổi sự nghiệp, phải liên tục mới thành công, nếu bỏ đầu này chạy đầu kia thì không bao giờ thành công; dù khó khăn cách mấy phải cố gắng đeo đuổi. Lấy bản thân mình làm ví dụ, khi đang làm Trưởng Bộ môn Di truyền và chọn giống thuộc Viện lúa ĐBSCL, thì năm 2006, chồng bà chuyển công tác lên TPHCM, lúc đó nếu bà bỏ cuộc đi theo chồng thì công việc nghiên cứu bỏ giữa chừng.
Bà quyết định ở lại để tiếp tục nghiên cứu, nhờ đó mới thành công như ngày hôm nay. Thế nên, GS-TS Nguyễn Thị Lang ví von, làm nghiên cứu như nhà văn phải đam mê và tùy hứng, khi ra nhiều sản phẩm, khi không ra được sản phẩm nào, vấn đề là quyết tâm theo đuổi đến cùng. Tuy nhiên, đôi lúc làm nghiên cứu khoa học cũng phải cứng rắn, phải “lì lợm” để bảo vệ quan điểm cá nhân, có cái riêng, cái mới của chính mình. 
Đến nay, dù đã nghỉ hưu ở Viện lúa ĐBSCL nhưng bà vẫn đam mê, nhiệt huyết với nghiệp nghiên cứu khoa học. Ngoài là Trưởng Bộ môn Công nghệ sinh học của Trường Đại học Cửu Long, giảng viên thỉnh giảng của Trường Đại học An Giang, bà còn thành lập Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL (tọa lạc tại TP Cần Thơ), với vai trò là viện trưởng. Với bà, đam mê đã ăn sâu trong máu, việc nghiên cứu không khiến bà thấy mệt mỏi, mà còn lý thú hơn.
Phan Tín (SGGP)

Có thể bạn quan tâm

Đi biển mùa xuân

Đi biển mùa xuân

Làng biển rộn ràng trong ngày hội Nghinh Ông. Lễ hội đã trở thành Tết biển, một nét đẹp văn hóa của người dân nơi đầu sóng ngọn gió Cần Giờ. Sau 3 ngày chơi lễ, những con tàu đánh cá lại vươn mình ra khơi, bám biển ngày đêm, đi suốt mùa xuân... 

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.