Lời thề còn ở trên ngàn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Một ngày cuối năm hoang hoải nắng, giữa đại ngàn Kon Ka Kinh, chúng tôi nghe chuyện 3 người đàn ông Bahnar trả nghĩa với rừng mà lòng rộn vui. Lời thề với ngàn xanh đã khiến họ từ bỏ việc đặt bẫy, cưa cây mưu sinh qua ngày để đảm nhận công việc quản lý, bảo vệ động vật hoang dã, cây rừng kiêm hướng dẫn viên du lịch. 
Từ TP. Pleiku, chúng tôi xuôi theo quốc lộ 19 đến Vườn Quốc gia (VQG) Kon Ka Kinh. Sáng sớm, nơi đây giăng phủ sương mù và thông thốc gió. Dẫu vậy, thời tiết cũng không làm nản lòng những con người đang âm thầm bảo vệ sự đa dạng sinh học của ngàn xanh, trong đó có 3 người đàn ông dân tộc Bahnar: Djưng, A Mưm, Chưn.
Một thời “ăn rừng”
Làng Đê Kjiêng (xã Ayun, huyện Mang Yang) tiếp giáp với VQG Kon Ka Kinh. Người dân tộc Bahnar chiếm số đông ở làng này. Dẫu có những thay đổi nhưng việc dựa vào rừng sinh tồn vẫn là một phần tất yếu trong đời sống của những cư dân bản địa.
Ba người đàn ông sinh sống ở làng Đê Kjiêng có tên là Djưng (SN 1968), Chưn (SN 1977) và A Mưm (SN 1980) cũng không là ngoại lệ. Đây là những thợ săn, sơn tràng có tiếng ở ngôi làng cạnh sông Ayun. Ngoài săn bắt thú rừng làm thức ăn hàng ngày thì họ còn bán cho những người có nhu cầu. Nhiều động vật rừng như: nai, mang, heo, gà, thỏ, khỉ… trở thành mục tiêu của những cuộc đi săn vì mưu sinh.
Đứng dưới bóng gốc đa cổ thụ trong khuôn viên Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật (VQG Kon Ka Kinh), anh A Mưm kể: “Mình từng là thợ săn giỏi nhất vùng này đấy. Hồi đó, nhắc đến tên mình là ai cũng kiêng nể bởi chưa lần nào vào rừng đặt bẫy mà phải về tay không”. 
Những thợ săn khét tiếng một thời đã bỏ nghề để chuyển sang làm công việc bảo vệ động vật hoang dã rừng và cây rừng. Ảnh: Nguyễn Tú
Những thợ săn khét tiếng một thời đã bỏ nghề để chuyển sang làm công việc bảo vệ động vật hoang dã và cây rừng. Ảnh: Nguyễn Tú

Ông Trần Văn Thụ-Giám đốc Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật xác nhận những lời anh A Mưm chia sẻ. “Ngày trước, anh ấy đặt bẫy giỏi lắm. Anh ấy biết rõ tập tính của từng loại thú nên đã đặt là có con dính bẫy. Chúng tôi từng khốn khổ với người đàn ông này trong việc bảo vệ động vật rừng Kon Ka Kinh”-ông Thụ cười nói.
Với ông Djưng cũng vậy. Trước năm 2005, ông từng là một thợ săn thú có tiếng trong làng. Mỗi cánh rừng, con suối trong VQG Kon Ka Kinh đều in dấu chân ông Djưng. Ông thuộc địa thế của rừng và vị trí các đàn động vật trú ngụ như lòng bàn tay mình vậy.
Ông Djưng nhớ lại: “Lúc còn nhỏ, tôi thường được người lớn trong làng dẫn vào rừng đi săn và chỉ cách đặt bẫy, bắn nỏ, bắn súng. Đi riết theo mọi người nên tôi biết nhiều về rừng. Thời kỳ đó, cả làng cùng đi săn thú rừng để làm thức ăn mà. Họ săn được nhiều con thú lớn như: bò tót, heo rừng, nai, mang… Sau này, dân làng không còn đi chung thì một mình tôi tự vào rừng đặt bẫy. Có con nấu ăn, có con đem bán lấy tiền. Ngoài săn thú thì tôi còn vào rừng cắt gỗ bán lấy tiền”.
Không chỉ là thợ săn có tiếng, ông Chưn từng là “lâm tặc” cộm cán ở xã Ayun. Để trang trải cuộc sống gia đình, người đàn ông Bahnar rất kiệm lời thường vào rừng cưa trộm gỗ rồi xẻ hộp chở ra bán cho người mua. “Đói thì đầu gối phải bò thôi. Không cắt trộm gỗ thì con cái mình không có cái ăn, cái mặc. Mà cứ để chúng nó đói khát thì dân làng cười chê vợ chồng mình”-ông Chưn giãi bày.
Giữ rừng cho mai sau
Thời gian trôi đi, lối sống của dân làng Đê Kjiêng cũng dần thay đổi. Điển hình là 3 người đàn ông Bahnar nói ở trên. Không còn những đêm ngày lủi thủi trong rừng bẫy thú hay cưa cây lấy gỗ, họ tự nguyện gia nhập đội ngũ quản lý, bảo vệ rừng. 
Năm 2005, trong một lần tình cờ, ông Djưng được người làng giới thiệu dẫn đường cho TS. Hà Thăng Long đi tìm voọc chà vá chân xám ở VQG Kon Ka Kinh. Khi ấy, ông Long là chủ nhiệm dự án nghiên cứu này để kêu gọi sự chung tay bảo vệ loài linh trưởng quý hiếm trước nguy cơ tuyệt chủng.
“Người làng biết tôi rất rành về loại voọc chà vá chân xám nên chỉ cho ông Long. Tôi chỉ cần nghe mùi nước tiểu hay phân là biết đàn voọc đã ở chỗ đó trong thời gian bao lâu. Tôi cũng biết chúng sẽ ngủ những chỗ nào. Tôi đã giúp ông Long có những nghiên cứu chính xác về loài voọc chà vá chân xám ở Kon Ka Kinh. Tiếp đó, tôi rủ thêm ông Chưn ra Đà Nẵng hỗ trợ ông Long xây dựng khu nghiên cứu, bảo vệ loại voọc chà vá chân nâu. Sau 2 đợt đó, tôi thấy cần phải làm một cái gì để thay đổi nhận thức của dân làng mình nhằm giữ rừng. Và tôi chọn cách từ bỏ săn bắn, đặt bẫy, cưa cây. Ông Chưn cũng vậy”-ông Djưng nhớ lại.
Từ đầu năm 2019 đến nay, ông Djưng và ông Chưn đều làm việc tại Trung tâm Giáo dục môi trường và Dịch vụ môi trường rừng (VQG Kon Ka Kinh). Công việc chính của 2 ông là phục vụ hoạt động du lịch sinh thái ở đây.
Bên cạnh việc vào rừng tìm kiếm những cảnh đẹp, vị trí mới để mở tour thì 2 ông còn giúp du khách được trải nghiệm cảm giác ăn uống ở trong rừng. Gà nướng, cơm lam, rau rừng là những món ăn đậm đà bản sắc của người Bahnar được chính tay 2 ông nấu nướng. Một vài kỹ năng sinh tồn ở rừng cũng được các ông cung cấp sơ lược cho du khách. Ngoài ra, 2 ông còn đảm nhiệm việc lên rừng gỡ bẫy thú do kẻ xấu đặt.
“Chúng tôi tiên phong làm việc trong này để cho những người khác biết sẽ được hưởng lợi ích lâu dài từ rừng, ví như việc thu được nhiều tiền từ những đoàn du khách tham quan hay giúp bảo vệ môi trường. Tôi sẽ tiếp tục làm công việc này cho đến lúc điều kiện không cho phép thì mới nghỉ”-ông Chưn bộc bạch.
1. A Mưm và ông Djưng chia sẻ với PV công việc hiện tại
Anh A Mưm và ông Djưng chia sẻ với phóng viên về công việc hiện tại. Ảnh: Nguyễn Tú
Nói về quá trình làm việc của ông Djưng và ông Chưn, Giám đốc Trung tâm Giáo dục môi trường và Dịch vụ môi trường rừng Đinh Khánh Toàn dành những lời ngợi khen: “Hai ông luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nấu ăn cũng rất ngon. Nhiều du khách đánh giá rất cao 2 ông ấy trong quá trình làm hướng dẫn viên”.
Anh A Mưm là nhân viên hợp đồng ở Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật. Anh đã làm việc nơi đây 3 năm. Đôi bàn tay chai sạn giờ không còn gài bẫy trong rừng Kon Ka Kinh mà chuyển sang gỡ bẫy để đảm bảo an toàn cho các loài động vật hoang dã.
Ba năm qua, hàng trăm cái bẫy thú đã được người thợ săn nức tiếng một thời gỡ bỏ. Nhiều con thú hoang được Trung tâm giải cứu trở nên thân quen với anh A Mưm. Một đồng nghiệp của anh A Mưm rỉ tai tôi: “Được chăm bẵm bất kể ngày đêm nên con khỉ má vàng coi anh A Mưm như người thân. Mỗi lần anh ấy đến gần chuồng là nó mừng lắm”.
Chia sẻ về cơ duyên làm việc ở Trung tâm, anh A Mưm nói: “Được anh em Kiểm lâm tuyên truyền nhiều lần, mình biết những việc làm trước đây là sai trái. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt mà. Lỡ dại dính vòng lao lý do bẫy thú hay phá rừng trái phép thì khổ con cái”.
Nhận thức được con đường sáng, A Mưm như cởi bỏ nút thắt đè nặng trong lòng bấy lâu, sau mỗi sáng đi nhặt bẫy, nhìn ánh mắt của những con thú hoang đang sợ hãi, cầu cứu, anh luôn cảm thấy ám ảnh về tội lỗi của mình, nhưng vì mưu sinh không khác được... Anh A Mưm tự lên rừng chặt hết bẫy mà mình đã đặt trước đó. Anh dùng hết sức cắm phập lưỡi rựa vào thân cây già, đứng lặng nhìn lên đỉnh Kon Ka Kinh hồi lâu rồi lập lời thề độc bỏ nghề.
Anh A Mưm và những chiếc bẫy do mình gỡ về. Ảnh: Nguyễn Tú
Anh A Mưm và những chiếc bẫy do mình gỡ về. Ảnh: Nguyễn Tú
“Cây rựa vẫn còn lưu trên thân cổ thụ đó như vật chứng nhắc nhở mình về lời thề độc với rừng thiêng. Vì thế, mình đã quay về làm việc cho Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật để trả nợ cho rừng. Khi mới vào làm ở đây, nhiều người làng chưa bỏ nghề săn bắt ghét mình lắm, nói mình giật miếng cơm của họ. Có người vác dao đến nhà dọa chém. Đến nay thì nhiều người đã hiểu ra, không đi rừng đặt bẫy nữa. Người làng cũng ít dị nghị về mình rồi”-anh A Mưm bộc bạch.
Giám đốc Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật cũng dành những lời có cánh cho anh A Mưm: “Từng là thợ săn giỏi nên anh A Mưm giúp Trung tâm phát hiện, tháo gỡ các loại bẫy thú do người dân đặt trong lâm phần quản lý. Làm việc ở đây, anh phát huy được khả năng trong việc tuyên truyền, vận động người dân chấp hành quy định về công tác bảo vệ, phát triển rừng. Anh ấy cũng làm rất tốt phần việc của mình trong hoạt động giải cứu động vật ở Trung tâm”.
*
Con đường bê tông dẫn từ Trung tâm Cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật ra cổng chính VQG Kon Ka Kinh len lỏi giữa những cánh rừng. Thi thoảng có một vài con thú lao vút qua. Trên những cành cây cao hai bên đường, chim hót líu lo. Gió trên ngàn như vọng lời thề giữ rừng của 3 thợ săn Bahnar đã “hoàn lương”.
NGUYỄN TÚ-MINH TRIỀU

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null