Lên rừng, xuống biển mưu sinh - Kỳ 2: Những đêm trăn trở giữa rừng sâu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Không ít cặp vợ chồng ở Quảng Ngãi gửi con nhỏ cho họ hàng rồi dắt nhau vào rừng sâu ở hàng tháng trời, cần mẫn đốn hạ và lột vỏ keo thuê để kiếm tiền nuôi con.

Nghề cực khổ và nguy hiểm

Mưa lất phất dưới nền trời xám xịt. Khu rừng giáp ranh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thấp thoáng bóng người. Họ trùm tấm ni lông mỏng quanh người để làm việc trong màn mưa lạnh. Những con đường xe tải chở gỗ hằn sâu vệt bánh, bùn đất nhão nhoẹt trườn lên dốc núi cao, nằm cạnh vực sâu. Tài xế điều khiển xe phải lắm gan lì mới dám vượt qua những cung đường hiểm nguy như thế.

lenrungdd.jpg
Bà con đồng bào Hrê cặm cụi làm việc giữa trời lất phất mưa bay. ẢNH: TRANG THY

"Tay lái giỏi và phải có thần kinh thép mới dám vào rừng chở gỗ keo, chứ người thường chẳng dám chạy đâu. Đường trơn trượt cộng với xe chở nặng nguy hiểm lắm. Lâu lâu có vụ xe tải chở gỗ keo bị lật gây chết người. Tội lắm!", bà Nguyễn Thị Nghĩa (ở xã Phổ Cường, TX.Đức Phổ, Quảng Ngãi), một chủ rừng trồng keo, nói.

Nhân công khai thác keo thuê cho bà Nghĩa là nhóm người đồng bào dân tộc thiểu số Hrê đến từ H.Ba Tơ (Quảng Ngãi). Hai người đàn ông khỏe mạnh ôm cưa máy hạ cây và cắt thành khúc dài tầm 3 m. Những người còn lại gom cây thành đống rồi cặm cụi lột vỏ. Công việc kéo dài từ sớm tinh mơ đến tận trưa. Họ trở về lán trại lúi húi nấu nướng, ăn vội bữa trưa đạm bạc và nghỉ ngơi giây lát rồi tiếp tục ra rừng làm việc.

Chiều muộn, mọi người cùng nhau gắng sức khiêng, vác gỗ keo chất lên xe tải. Xong xuôi, họ ra khe suối tắm rửa rồi vác thùng nhựa chứa nước nặng trĩu vai trở về lán trại nấu ăn khi ngày dần chuyển sang đêm.

2lenrung.jpg
Lán trại dựng tạm làm nơi trú ngụ giữa rừng. ẢNH: TRANG THY

"Mờ mờ sáng là chúng tôi đã dậy nấu cơm và ăn để ra làm sớm. Trưa, tối cũng tự kiếm củi nấu ăn và tranh thủ nghỉ ngơi để ngày mai còn làm tiếp", anh Phạm Văn Lít (một người trong nhóm khai thác gỗ keo cho bà Nghĩa) nói.

Nhóm của anh Lít một nửa là phụ nữ nhưng vẫn cặm cụi làm việc như nam giới. Họ khiêng những khúc cây to chất thành đống rồi lột lớp vỏ ngoài để lộ thân gỗ trắng tinh. Chốc lát rộ lên tràng cười vui vẻ làm vơi đi bao nỗi nhọc nhằn.

"Làm nghề khai thác keo nặng nhọc lắm nhưng ở nhà thì không có tiền. Vậy nên cả vợ chồng cùng đi. Nhiều gia đình có con lớn nghỉ học rồi cũng theo cha mẹ đi làm luôn. Gặp rừng keo tốt thì mỗi ngày kiếm được hơn 200.000 đồng. Nếu rừng keo xấu, không có sản lượng thì số tiền kiếm được ít hơn", một phụ nữ cho biết.

Hơn 15 năm khai thác gỗ keo thuê, anh Phạm Văn Thủy rong ruổi qua những nẻo đường rừng 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định. Khi làm thuê cách nhà trên dưới 20 km, vợ chồng anh thường đi về trong ngày. 2 con nhỏ gửi cho người chị gái đón đưa đến trường. Tầm 2 giờ sáng, vợ chồng anh Thủy thức dậy nấu nướng rồi ăn vội bữa sáng trước khi rời nhà. Trưa, hai vợ chồng mở gói cơm mang theo ăn qua bữa rồi tiếp tục làm việc. Sau khi chất gỗ lên xe vào chiều muộn, anh chị vượt đường rừng trở về bên hai con trong đêm tối mịt mùng.

Những khi làm xa, việc đón đưa, chăm sóc con cái đành phó thác cho người chị gái ở quê. Nhiều đêm trăn trở giữa rừng sâu, vợ anh nhớ thương con đến cháy lòng nhưng vẫn mím môi chịu đựng để khỏi bật ra tiếng khóc. Vào dịp hè, vợ chồng anh Thủy cùng những người làm chung đưa con vào rừng cho vơi nỗi nhớ thương khi xa cách. Cha mẹ cần mẫn cưa hạ, lột vỏ keo ngoài rừng thì chúng tụm lại bên lán trại chơi đùa nói cười líu lo như chim non đón mừng nắng mới.

"Mỗi ngày vợ chồng tôi kiếm được 400.000 - 500.000 đồng, chưa trừ xăng xe đi lại. Làm nghề khai thác keo khổ cực và nguy hiểm. Nhưng nếu không thì chẳng có việc gì làm để kiếm sống. Mỗi năm mình ở nhà có vài chục ngày thôi anh à! Những bữa đó có ai kêu đi phụ hồ hay làm thuê là mừng lắm", anh Thủy tâm sự.

Nồng ấm tình người

Khai thác keo rất nặng nhọc nên đòi hỏi những người có sức khỏe mới kham nổi công việc. Thế nhưng, trong nhóm có những phụ nữ ốm yếu vẫn mưu sinh giữa rừng. Theo yêu cầu của chủ thuê, mỗi nhóm từ 10 - 30 người khai thác đủ mỗi ngày một vài xe tải gỗ keo để đưa đến nhà máy chế biến dăm gỗ. Những người trẻ, khỏe mạnh tự nguyện đảm đương công việc nặng nhọc, còn phụ nữ được phân công những việc nhẹ hơn. Khoản tiền kiếm được chia đều cho mọi người sau khi trừ chi phí khấu hao máy cưa và xăng, nhớt.

3lenrung.jpg
Lột vỏ keo sau khi cưa hạ. ẢNH: TRANG THY

Tay lái giỏi và phải có thần kinh thép mới dám vào rừng chở gỗ keo, chứ người thường chẳng dám chạy đâu. Đường trơn trượt cộng với xe chở nặng nguy hiểm lắm...

Bà Nguyễn Thị Nghĩa (một chủ rừng trồng keo)

"Mình lớn tuổi rồi nên chỉ làm việc nhẹ thôi. Hằng ngày chỉ lột vỏ keo nhưng không nhanh nhẹn như lúc trẻ nữa. Vậy nhưng vẫn được chia bằng tiền như mọi người trong nhóm. Ở đây đi làm keo chung, nhóm nào cũng như vậy cả, không tính toán thiệt hơn đâu", bà Phạm Thị Bôi nói.

Những chuyến vào rừng lưu trú nhiều ngày, đồng bào dân tộc Hrê mang theo gạo, muối, cá kho mặn, cá khô, mì tôm và gia vị. Họ nấu ăn theo từng bếp vợ chồng hay vài ba người bà con thân thuộc. Do khoảng cách khá xa nên mươi bữa, nửa tháng, một người vượt quãng đường núi gập ghềnh đến chợ mua lương thực, thực phẩm cho các bếp ăn trong nhóm. Vậy nên bữa cơm thường ngày của họ luôn đạm bạc.

4lenrung.jpg
Ông Trần Sơn bày biện lễ vật cúng rừng rồi liên hoan với bà con đồng bào Hrê. ẢNH: TRANG THY

Sau buổi làm việc vất vả, những phụ nữ rảo bộ trong rừng tìm mớ rau dại mang về lán trại nấu canh với nước suối, nêm thêm ít muối và bột ngọt. Nếu nhiều ngày chưa xuống chợ, họ chia nhau hạt muối, muỗng nước mắm và gói mì tôm cuối cùng cho qua bữa. Cuộc sống khổ cực nhưng vẫn rộn rã tiếng cười.

Vợ chồng bà Nguyễn Thị Nghĩa sở hữu nhiều rừng nên gắn bó với đồng bào thiểu số khai thác gỗ keo thuê. Ngày đầu tiên khai thác, ông bà bày biện lễ vật ra tấm bạt trải nơi góc rừng rồi thắp hương cúng vái, khấn nguyện. Chồng bà là ông Trần Sơn cầu cho những người khai thác keo thuê được mạnh khỏe, bình an, việc cưa hạ thuận lợi, mong cây đạt sản lượng cao... Hương tàn, bà Nghĩa mang thức ăn đến từng lán trại cho bữa chiều.

Dẫu khoán sản phẩm nhưng vài ba bữa, vợ chồng bà Nghĩa mang đồ ăn, thức uống đến tặng cho các đội thợ. "Bà con khổ mới đi làm như thế nên mình giúp đỡ chút ít để chia sẻ bớt khó khăn. Cứ mươi bữa mới xuống chợ mua thực phẩm nên họ ăn uống đạm bạc lắm. Mình tiếp tế không nhiều nhặn gì nhưng bà con vui lắm. Đấy là nghĩa tình giữa người và người...", bà Nghĩa tâm sự. (còn tiếp)

Theo Trang Thy (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null