Làng Việt Nam: 'Làng tôi' của Văn Cao

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Một trong những tác phẩm âm nhạc để đời của Văn Cao là ca khúc Làng tôi được ông sáng tác trong kháng chiến chống Pháp.

Một khi làng quê đã đi vào âm nhạc, thì nó gợi cho người Việt tình yêu thương, trước hết với ngôi làng của mình, rồi sau đó với nhiều ngôi làng khác mà mình đã sống qua, đã đi qua.

Ca khúc của Văn Cao không định danh ngôi làng, nhưng ai nghe bài hát cũng nhớ về ngôi làng quê của mình, như một góc riêng tư của ký ức.

Như có lần Văn Cao về thăm và dự đêm nhạc của mình tại quê hương Nam Định, khi lãnh đạo tỉnh đề nghị ông sáng tác một bài hát cho quê hương Nam Định, ông đã cười và bảo: "Bài hát Làng tôi chính là tâm huyết của tôi viết cho quê hương đấy".

Nghĩa là người Việt khi nghe bài hát này đều thấy rõ đến ám ảnh hình bóng quê hương mình qua âm nhạc và ca từ.

Lũy tre làng ở xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Lũy tre làng ở xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Với người Việt Nam, mỗi khi nhắc tới chữ "làng" là nhắc tới những gì cực kỳ gắn bó, cực kỳ thân thiết với mình, dù làng mình đã có từ nghìn năm trước hay mới có trăm năm nay, làng mình đã thấm sâu vào cuộc đời mình, trở thành máu thịt của mình, không sao quên được.

Chính vì thế, mỗi khi nhạc sĩ có được giai điệu đầu tiên hát về làng mình, nhà thơ có được câu thơ đầu tiên viết về làng mình, thì tác phẩm âm nhạc và thơ ấy đều rất hay, nghe và đọc rất thấm thía.

Nếu Văn Cao "sinh tôi ra đã có Hải Phòng" mở đầu trường ca Những người trên cửa biển, thì ca khúc Làng tôi của ông không viết về Hải Phòng, không hẳn viết về Nam Định nhưng người Hải Phòng hay Nam Định đều cảm thấu bài hát ấy viết về chính quê hương mình.

Với ngôi làng miền Bắc, là làng Công giáo, thì tiếng chuông chiều buông gợi lên bao cảm xúc. Âm thanh tiếng chuông chiều nghe giống nhau, nhưng tâm trạng mỗi người nghe lại mỗi khác.

Cũng như lũy tre làng, nhìn thì lũy tre làng nào cũng giống nhau, nhưng khi hình ảnh ấy đi vào thơ nhạc, thì mỗi người đọc hay nghe lại có "cõi riêng" của mình về lũy tre ấy. Thu vào mỗi cảm xúc riêng tư, và tỏa rộng ra thành cảm xúc của cộng đồng, hình ảnh làng quê chúng ta tồn tại như vậy đó.

Với ngôi làng miền Bắc, là làng Công giáo, thì tiếng chuông chiều buông gợi lên bao cảm xúc

Với ngôi làng miền Bắc, là làng Công giáo, thì tiếng chuông chiều buông gợi lên bao cảm xúc

Tôi đã nghe đi nghe lại nhiều lần bài hát Làng tôi của Văn Cao, mỗi lần nghe lại có những cảm xúc không hoàn toàn giống nhau.

Đó là khi một ca khúc hết sức tuyệt vời tạo những rung cảm như những đợt sóng trong ta, sóng thì giống nhau nhưng mỗi đợt sóng lại mỗi khác.

Bồi hồi và hân hoan, ngân rung và nao nức, ấy là lúc Làng tôi chuyển điệu, như tiếng reo vui của dân làng, như niềm hy vọng về một ngày mai thái bình. Làng lại về với hình ảnh xưa cũ của mình, thương yêu và gần gũi biết bao nhiêu.

Xin giới thiệu lại những ca từ của bài Làng tôi, ca từ thật giản dị mà đầy cảm xúc của nhạc sĩ - nhà thơ Văn Cao:

Làng tôi xanh bóng tre

Từng tiếng chuông ban chiều

Tiếng chuông nhà thờ rung

Đời đang vui đồng quê yêu dấu

Bóng cau với con thuyền, một giòng sông...

... Làng tôi cùng đoàn quân chiến thắng,

Đánh tan lũ quân thù về làng xưa.

Dân tưng bừng chặt tre phá cầu,

Cùng lập chiến lũy đào hào sâu.

Giặc chưa tan chiến đấu không thôi,

Đồng quê chào đón ngày mai.

Văn xuôi viế về LÀNG một kiểu, còn âm nhạc hát về LÀNG một cách, kiểu và cách ấy đi song song với nhau, bổ sung cho nhau. Như khi ta đọc Chí Phèo của Nam Cao viết về làng Vũ Đại, rồi ta chuyển qua nghe Làng tôi của Văn Cao hát về một ngôi làng Việt Nam dịu lành và bất khuất. Cũng là làng đấy, giống nhau đấy mà khác nhau, nỗi đau của Chí Phèo thời nô lệ khác rất nhiều với nỗi đau:

Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà

Ngày giặc Pháp tới làng triệt thôn .

Và khi người dân làng chứng kiến cảnh:

Đường ngập bao xương máu tơi bời

Đồng không nhà trống tàn hoang.

Thì lòng căm thù trỗi dậy, đó là lòng căm thù của cả một dân tộc : "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" (Hồ Chí Minh - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp - 12.1946).

Làng Vũ Đại của Chí Phèo là ở thời Pháp thuộc, còn Làng tôi của Văn Cao là ở thời kháng chiến chống Pháp. Hai ngôi làng ấy giống nhau ở người dân, mà khác nhau cũng ở người dân.

Theo Thanh Thảo (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null