(GLO)- Chúng tôi không có ý định khơi lại vùng ký ức kinh hoàng của người dân làng Kép, về chiến tranh. Người ta nói rằng, dưới mỗi nóc nhà trong làng, không nhà nào không có nỗi đau của sự mất mát. Dòng sông lịch sử đã cuốn trôi theo dòng những ký ức đau thương. Nhìn về quá khứ, các thế hệ làng Kép chỉ còn niềm tự hào bởi chính từ đây, đã sinh ra những người anh hùng.
Những đứa trẻ làng Kép lớn lên trong niềm kiêu hãnh về tinh thần bất khuất thế hệ cha anh dũng cảm đánh giặc giữ làng. Ảnh: Hoàng Ngọc |
Gần một năm kể từ mùa mưa trước, chúng tôi mới có dịp trở lại ngôi mộ chung ở làng Kép-xã Ia Phí (huyện Chư Pah)-biểu tượng cho sự bất khuất, anh dũng của người Jrai vùng này trong chiến tranh. Vẫn khung cảnh cũ, nhưng ngôi mộ chung đã mang một dáng vẻ khác. Nơi yên nghỉ của những người anh hùng đã có một nhà bia tưởng niệm khang trang, mái ngói đỏ tươi. Không còn những ô mộ xanh rêu nằm phơi mình giữa mưa nắng trầm mặc.
Tên những đứa con của làng được chạm khắc trang trọng trên bia đá. Nằm giữa khu nhà mồ của làng, dưới những bóng mát cổ thụ, nhưng xung quanh nhà bia cây xanh được trồng thêm khá nhiều. Khoảng sân trước, giữa những viên gạch lát, người ta đã tỉ mỉ trồng những hàng cỏ xanh. Bồi hồi đứng ngắm khu nhà bia, già làng Rơ Châm Hum nói, cuối cùng, sau gần 40 năm độc lập, những đứa con anh hùng của làng đã có chỗ yên nghỉ khang trang.
Là người từng sinh tử trong kháng chiến chống Mỹ với ba lần bị địch bắt, già Hum cho biết, ông nhớ tường tận những lần địch vào làng càn quét, giết chóc. Nhớ những con người từng đứng lên tranh đấu, từng người ngã xuống, trong đó có những người đang nằm dưới ngôi mộ chung kia. Già Hum kể: “Làng này nếu không “cứng đầu” thì bị địch xóa sổ chứ còn đâu. Mình nhớ nhiều lần địch vào làng càn quét, tìm bắt đám đàn ông đi lính, ức hiếp đàn bà con gái; bắt con trâu, con bò... đã khiến dân làng nổi giận. Đám đàn bà là dữ dội nhất. Nhiều người chỉ thẳng mặt bọn Mỹ vạch tội ác. Đàn ông thì khỏi nói rồi, không một ai đi lính cho Mỹ, một lòng theo bộ đội. Mình chỉ là một trong số những người làng Kép được cách mạng giao việc”.
Câu chuyện ngắt quãng khi giữa cuộc chuyện trò, có một người đàn ông già nua lọm khọm đi tới. Già Hum giới thiệu: “Đây là Blơt. Mình nhớ hồi trẻ, trong một lần địch càn qua làng bắt lính, Blơt đã phải giả điên mới thoát khỏi tay bọn Mỹ”. Hai người đàn ông Jrai quay sang nói chuyện với nhau, câu chuyện gợi những ký ức cũ, với những con người nay đã không còn. Thỉnh thoảng, họ lại hướng về phía những nhà mồ mới cũ nằm rải rác trên khuôn đất rộng, tràn ngập màu xanh. Chỉ về phía một nhà mồ nằm dưới tán cây cao, già Hum giải thích: “Người phụ nữ đấu tranh kiên cường nhất làng, có lần khiến thằng Mỹ phải buông súng đứng khóc, giờ nằm kia. Cả làng này không riêng người theo bộ đội, người làm cách mạng, người dân bình thường cũng rất dũng cảm”.
Màu xanh trù phú đã xóa đi ký ức đau thương về chiến tranh. Ảnh: Hoàng Ngọc |
…Thuở già Hum còn là một chàng trai khỏe mạnh, thông minh, ông được giao nhiều nhiệm vụ, có thời kỳ làm cơ sở cho cách mạng, lúc làm Xã đội trưởng, khi làm Trưởng ban Kinh tế, sau này giải phóng làm Trưởng Công an xã cho tới khi về hưu. Nhớ về thời kỳ đấu tranh gian khổ, già làng kể: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của mình lúc bấy giờ là phát động thi đua sản xuất, đảm bảo nguồn lương thực để tiếp tế cho bộ đội quanh vùng. Bên cạnh đó phải làm công tác giáo dục tư tưởng để thanh niên vững vàng hơn, không bị Mỹ dụ dỗ đi lính cho chúng. Mình thường cải trang, đóng khố mặc áo rách đi làm rẫy chung với dân để tránh bị phát hiện. Vậy mà có đến ba lần bị địch bắt, hai lần bị chúng giam ở Nhà lao Pleiku, một lần giam ở Kon Tum. Chu cha, chúng tra tấn mình chết đi sống lại, lặp lại một câu hỏi: “Mày có phải Việt Cộng không?”. Mình cũng chỉ có một câu trả lời duy nhất bằng tiếng Jrai “Tao là người Jrai, tao chỉ biết làm rẫy”. Tra tấn mãi không khai thác được gì, nhất là mình chỉ nói tiếng mẹ đẻ nên chúng tha”. Sau mỗi lần trở về, già Hum được một “người cách mạng” là ông Rơ Châm Djôl gọi lên giao nhiệm vụ mới.
Dù nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng trong ký ức của già Hum, Djôl là người gan dạ, dũng cảm nhất ông từng biết. “Ông ấy là người làng Kép, rất quyết đoán. Ngày ấy giặc Mỹ có mặt khắp vùng rừng núi này, đông hơn cả dân trong làng. Nhưng Djôl luôn bình tĩnh trong những cuộc đối mặt kẻ thù. Ông ấy chính là người đã đứng ra kết nạp Đoàn cho mình, cũng vào một ngày tháng 4 như hôm nay, năm 1963. Khi đó, mình xúc động hứa dưới lá cờ Đoàn sẽ cùng với nhân dân làm ra nhiều lúa gạo nuôi bộ đội, cùng dân đánh giặc, sống chết với dân. 10 năm sau đó thì mình được kết nạp Đảng. Nhưng lúc đó Djôl đã dũng cảm hy sinh trong một trận đánh. Ông ấy là một trong 24 liệt sĩ nằm dưới ngôi mộ chung kia”.
Câu chuyện của già Hum cứ dài mãi khi những đứa trẻ chăn bò quanh khu nhà mồ xúm xít quanh ông, nuốt lấy từng lời kể về câu chuyện đánh giặc giữ làng. Sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh giờ chỉ còn là miền hoài niệm với người dân làng Kép. Nhưng những đứa trẻ sẽ lớn lên trong niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất. Và đối với chúng, những tên người dưới cỏ xanh kia là hình tượng đẹp đẽ thiêng liêng, nhắc nhớ về một điều giản dị có sẵn trong mỗi người: lòng yêu nước, yêu làng.
Hoàng Ngọc