Ký ức về ngôi trường "có một không hai" ở Bắc Tây Nguyên: Kỳ 1-Tìm dấu trường xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Mới đây, P.V Báo Gia Lai có dịp tiếp cận một văn bản quý đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh, đó là Quyết định số 108/QĐ của UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum về việc thành lập Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh không nơi nương tựa của tỉnh vào năm 1976. Qua nỗ lực tìm kiếm nhân chứng liên quan, chúng tôi đã ghi nhận nhiều thông tin lý thú về ngôi trường chuyên biệt ra đời cách đây gần nửa thế kỷ. Tuy thời gian hoạt động chỉ kéo dài 11 năm nhưng trường đã để lại những dấu ấn khó quên.
Vừa bước ra khỏi 2 cuộc trường kỳ kháng chiến với bao bộn bề, gian khó, Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh không nơi nương tựa của tỉnh là minh chứng cho một chính sách hết sức nhân văn của chính quyền cách mạng khi đó. Tuy nhiên, việc lần tìm dấu tích, thông tin về ngôi trường mang ý nghĩa lịch sử này lại không hề dễ dàng, bởi hiện giờ còn rất ít người nhớ đến sự tồn tại của nó.
Từ những dấu tích mờ nhạt
Theo Quyết định số 108/QĐ của UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum, Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh Gia Lai-Kon Tum được thành lập ngày 20-6-1976. Cụ thể, UBND cách mạng tỉnh giao Ty Thương binh và Xã hội thành lập trường với số lượng học sinh từ 100 đến 150 cháu trở lên. Tổ chức bộ máy của trường gồm: hiệu trưởng, hiệu phó, 3 giáo viên, 7 cán bộ công nhân viên phục vụ nuôi dạy, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho các cháu theo kinh phí sự nghiệp. Trong quá trình thực hiện, nếu tỷ lệ học sinh tăng lên trên mức quy định thì sẽ nghiên cứu bổ sung.
Quyết định ghi rõ: “Ty Thương binh và Xã hội tỉnh trực tiếp lãnh đạo trường mọi mặt, bên cạnh đó cần phối hợp chặt chẽ với Ty Giáo dục tỉnh để có kế hoạch, biện pháp tổ chức và chỉ đạo cụ thể, kịp thời triển khai đảm bảo cho việc nuôi dạy các cháu tốt, đạt chất lượng hiệu quả cao. Văn phòng UBND cách mạng tỉnh, Phòng Tổ chức Ủy ban tỉnh, Ty Tài chính tỉnh, Ty Thương binh và Xã hội tỉnh, Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh có trách nhiệm thi hành quyết định này”. Người ký quyết định là ông Ngô Thành-Phó Chủ tịch UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum, sau này là Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Tổng Bí thư Lê Duẩn (thứ 7 từ trái sang) đến thăm thầy và trò Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh Gia Lai-Kon Tum vào tháng 7-1977 (ảnh tư liệu).
Tổng Bí thư Lê Duẩn (thứ 7 từ trái sang) đến thăm thầy và trò Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh Gia Lai-Kon Tum vào tháng 7-1977 (ảnh tư liệu).
Chúng tôi đã tìm gặp ông Ngô Thành để làm rõ thêm những thông tin về Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh. Vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn ở tuổi 95, ông Ngô Thành hồi tưởng: Sau ngày giải phóng, công tác chăm lo con liệt sĩ, thương binh được lãnh đạo tỉnh hết sức quan tâm. Khi đó, tỉnh có thành lập 2 trường vừa học vừa làm đặt tại huyện Đak Tô và Kbang; các trường này đều có những ưu tiên đặc biệt dành cho con em gia đình thương binh, liệt sĩ. Song, đáng tiếc là dù đã dành nhiều thời gian gợi nhớ, tâm trí ông không còn lưu lại thông tin gì về ngôi trường đặc biệt được thành lập cách đây gần nửa thế kỷ.
Lần tìm một số chi tiết về lãnh đạo Ty Giáo dục, Ty Thương binh và Xã hội thời kỳ sau giải phóng, chúng tôi được biết, phần lớn họ đã qua đời hoặc quá già yếu. Cuối cùng, chúng tôi cũng liên hệ được qua điện thoại với ông Nguyễn Thanh Bình-thời điểm năm 1976 là Phó Trưởng ty Giáo dục Gia Lai-Kon Tum, sau này là Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai. Ông Bình năm nay 88 tuổi, đang sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh. Khi được hỏi về ngôi trường này, ông kể: Trường nằm ở thị xã Kon Tum, cơ sở vật chất tận dụng từ một khu tập thể và sửa sang lại để thực hiện nhiệm vụ tỉnh giao. Số lượng học sinh lúc đó khoảng 150 em. Ông đã đến thăm trường nhiều lần và ghi nhận: Dù gặp không ít khó khăn song cán bộ, giáo viên nhà trường luôn nỗ lực trong việc nuôi dạy con em liệt sĩ, thương binh không nơi nương tựa. Tuy nhiên, khi được hỏi về thời gian tồn tại của nhà trường thì ông không nhớ rõ.
Một chính sách nhân văn
Theo tìm hiểu của P.V, liên quan đến chính sách đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nước, ngày 5-4-1976, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 60-CP “Về việc bổ sung một số điểm về chính sách đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ”. Ở mục “Chăm sóc, giáo dục con liệt sĩ”, Quyết định nêu rõ: “Chăm sóc, giáo dục con liệt sĩ là vừa để thể hiện đền ơn trả nghĩa những người đã hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vừa nhằm bồi dưỡng, đào tạo các con liệt sĩ thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, những người lao động có văn hóa, có chuyên môn kỹ thuật giỏi, những cán bộ có đạo đức và tài năng để xây dựng đất nước”.
Để thực hiện chủ trương này, quyết định trên yêu cầu: “Đối với con liệt sĩ mồ côi cả cha mẹ mà không có người thân thuộc trực tiếp săn sóc, nuôi dưỡng, thì chính quyền và đoàn thể ở địa phương có trách nhiệm trước hết phải tích cực vận động Nhân dân đảm nhiệm việc nuôi dạy các cháu, bằng các hình thức như giao cho từng gia đình, hợp tác xã, cơ quan, xí nghiệp nhận nuôi hoặc đỡ đầu các cháu; tập trung các cháu vào một xã có phong trào khá về chấp hành chính sách thương binh liệt sĩ để giao cho các gia đình tốt nhận nuôi các cháu, các cháu học tại trường của địa phương, có sự theo dõi, kèm cặp giúp đỡ của nhà trường, chính quyền và các đoàn thể Nhân dân ở trong xã. Sau khi đã tích cực giải quyết theo hướng trên đây, mà vẫn còn một số con liệt sĩ chưa có nơi đảm nhiệm việc nuôi dạy, thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể tổ chức các trại để nuôi dạy tập trung các cháu và cho các cháu học tại trường của địa phương. Trại có một số giáo viên và nhân viên để quản lý trông nom, kèm cặp, dạy dỗ các cháu học tập ngoài giờ học tập ở trường”.
Quyết định thành lập Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh do UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum ban hành ngày 20-6-1976.
Quyết định thành lập Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh tỉnh do UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum ban hành ngày 20-6-1976.
Bà Trịnh Thị Thu Hương-Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh: “Chúng tôi, những người làm công tác lưu trữ đã không khỏi xúc động khi lật từng trang tài liệu này. Những cống hiến và hy sinh của thương binh, liệt sĩ cùng thân nhân của họ không bao giờ là vô nghĩa và sẽ mãi được khắc ghi, đền đáp bằng những việc làm cụ thể, thiết thực nhất”.
Tiếp đó, ngày 24-7-1976, nhằm hướng dẫn triển khai thực hiện Quyết định số 60, Liên bộ Giáo dục-Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 16-TT/LB “Về việc tăng cường chăm sóc và giáo dục con liệt sĩ trong tình hình mới”. Đáng nói là không chờ thông tư hướng dẫn, UBND cách mạng tỉnh Gia Lai-Kon Tum đã “đi trước” 1 tháng khi ra quyết định thành lập một ngôi trường nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh (không chỉ là trại) với quy mô lên đến 150 em vào ngày 20-6-1976. Như vậy, khi đó, lãnh đạo tỉnh đã lĩnh hội rất sát tinh thần của Quyết định số 60, song cũng đầy trách nhiệm và quyết tâm khi đưa ra quyết định trên trong điều kiện địa phương đang phải đối mặt với không ít tổn thất, gian nan thời hậu chiến.
Trong lúc nỗ lực tìm kiếm thêm thông tin và dấu tích ngôi trường hết sức chuyên biệt này, được sự giới thiệu của bà Trịnh Thị Thu Hương-Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh, chúng tôi được tiếp cận thêm một tài liệu khác cũng đang bảo quản tại Trung tâm, đó là Quyết định số 75/UBND ngày 28-7-1988 của UBND tỉnh Gia Lai-Kon Tum “Về việc chuyển Trường Nuôi dạy con liệt sĩ Kpă Kơ Lơng thành Trường Phổ thông trung học nội trú dân tộc trực thuộc Sở Giáo dục Gia Lai-Kon Tum”. Người ký quyết định là ông Sô Lây Tăng, khi đó là Chủ tịch UBND tỉnh. Băn khoăn lớn nhất của chúng tôi là: Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh không nơi nương tựa của tỉnh và Trường Nuôi dạy con liệt sĩ Kpă Kơ Lơng có phải là một? Có bao nhiêu người đã trưởng thành, cống hiến nhờ sự nuôi dạy tận tâm của các thầy-cô giáo nơi đây?
Và rồi, như một cơ duyên kỳ lạ, chúng tôi đã may mắn liên lạc được với các thầy-cô giáo từng công tác tại Trường Nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh không nơi nương tựa tỉnh Gia Lai-Kon Tum thông qua sự chỉ dẫn, kết nối của một số nhân chứng. Từ đây, nhiều câu chuyện lý thú về ngôi trường chuyên biệt “có một không hai” ở Bắc Tây Nguyên đã được mở ra.
PHƯƠNG DUYÊN
 
 

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null