Khi đất hóa tâm hồn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Tháng chạp nắng vàng hanh. Sông Trà Bồng chảy qua làng Mỹ Thiện xanh đến nao lòng. Anh bạn người bản địa khoe sông Trà Bồng bốn mùa xanh, xanh như màu men lam pha biếc trên đồ sứ đẹp nổi tiếng ở làng này.
 
Ông Đặng Văn Trịnh cùng con gái kiểm tra chất lượng sản phẩm. Ảnh: Trần Cao Duyên
Nghề gốm thường “đóng đô” dọc triền sông. Ngoài việc vận chuyển sản phẩm thuận tiện, đất sét ven sông là nguồn nguyên liệu quý để sản xuất gốm. Và từ gốm, người ta “nâng cấp” lên thành sứ nhờ kỹ nghệ tráng men. Dân gốm dặn nhau một cách ví von: Gốm có men thành đồ sứ thanh thoát, sang trọng. Nhưng người “có men” đôi khi... phàm tục, nông cạn.
Xưa, sản phẩm lên thuyền từ sông ra biển rồi ngược bắc xuôi nam. Thời hoàng kim, dòng gốm sứ Mỹ Thiện “chảy” đi khắp nước, theo chân các nhà buôn Việt kiều qua tận Lào, Thái Lan, Campuchia...
Triết lý... gốm
Làng nằm ven TT.Châu Ổ, H.Bình Sơn (Quảng Ngãi). Những năm 80 thế kỷ trước, Mỹ Thiện có trên trăm lò gốm thường xuyên đỏ lửa. Trai làng dí dỏm: Nhờ gần lò nung gốm, gái Mỹ Thiện má đỏ môi hồng. Có câu ghẹo gái làng bên như vầy: Em gì ơi, má chưa hồng/Cứ qua Mỹ Thiện lấy chồng được ngay.
Vật đổi sao dời. Làng gốm Mỹ Thiện xưa đông vui là thế nhưng mỗi năm mỗi vắng. Nay chỉ còn “đúng” một người vẫn tâm đắc với nghề này. Đó là ông Đặng Văn Trịnh, ngấp nghé tuổi 60. Ông giỏi nghề, lại “một mình một cõi”, sản phẩm làm ra bán rất chạy. Ai cũng khen ông chung thủy với nghề nên được tổ nghề phù hộ. Nhưng cũng có người nói chung thủy gì đâu! Nghề gốm bấp bênh. Người ta rần rần dỡ lò. Ổng Trịnh không thích chạy theo đám đông nên tự nhiên trụ lại. Hên xui thôi.
 
Những sản phẩm vừa nung tại lò gốm của ông Đặng Văn Trịnh. Ảnh: Trần Cao Duyên
Một “già gốm” kể có thời đài to đài nhỏ thi nhau ca ngợi “làng nghề gốm sứ”. Rốt cuộc có nên cơm cháo gì đâu! Sản phẩm dồn ứ, ế ẩm, đầu ra không có, bán cho ai? Tết năm đó tui buồn nẫu ruột, họa thơ rằng: “Gốm đỏ buồn không thắm/Than đen lịm giữa lò”. Rồi còn chuyện cả làng xả khói lên trời. Nhiều lần bị trời “trả lại”. Sống trong khói đâu có dễ dàng gì! Biết là người phụ nghề chứ nghề không phụ người. Nhưng trăm người bán phải vạn người mua mới là thị trường chứ. Tính coi, cùng một cây số đường mà có tới cả chục thợ “vá lốp bơm xe” thì lốp nào mà xẹp, mà lủng cho kịp! Một thợ là đúng. Số còn lại phải giãn ra hoặc chuyển nghề. Túm tụm lại thì “chết” cả đám.
Dân gốm nói chuyện kinh tế nghe mộc mạc như củ khoai, hòn đất. Nhưng ngẫm cũng có lý.
Trò chuyện với dân gốm trong làng mới thấy “triết lý gốm” của họ thật đơn giản: Yêu gốm, tay nghề tinh xảo, và quan trọng là sống được với gốm thì ở lại. Còn không thì đường ai nấy đi. Nói một cách dứt khoát vậy nhưng họ không giấu được nét trầm tư. Cái tình với nghề mà. Xa gốm họ cũng ám ảnh lắm. Có người “len lén” đắp cái lò chút xíu trên nền lò cũ, lọ mọ đi lấy đất sét về rồi lui cui sàng lọc, nhào nặn, đem cái bàn xoay trong góc nhà ra. Ngày tết làm vài món gốm sứ. Trước là chưng chơi, sau là cho... cái tay đỡ nhớ.
Yêu gốm hơn... yêu vợ
Gần tết, lò gốm nhà ông Trịnh ngày đêm đỏ lửa. Khách xa nườm nượp đặt hàng. Ché đựng rượu cho người miền núi. Chum, vại, siêu, chén, lọ, ấm, tách... cho giới bình dân miền xuôi. Nhà khá giả thì đặt độc bình, ché, bát hương kiểu xưa tráng men với hoa văn đắp nổi long lân quy phụng, mai lan trúc cúc... Ông Trịnh sở đắc những bài men “độc” từ cha ông truyền lại. Nhờ vậy, màu men trên sản phẩm của ông đẹp mê ly. Từ xanh lam đến nâu vàng, từ màu da lươn đến màu cua đồng hay cánh gián, màu nào cũng lao xao mảnh hồn của đất. Khách sành gốm sứ tấm tắc khen ông có tài gia giảm độ lửa trong khi nung để màu men trên cùng một sản phẩm sáng tối, đậm nhạt hài hòa. Cái này người trong nghề gọi là nghệ thuật “hỏa biến”.
Nghĩ, tuổi thọ của những vương triều có là bao so với gốm sứ. Một cái bình dùng uống trà thôi cũng qua bàn tay nâng niu của nhiều thế hệ trong cùng một gia đình. Nhìn một vật dụng gốm đi qua trùng điệp tháng năm, người ta thấy “cái hồn” của gốm. Bao nhiêu là thời gian tích tụ trong đó. Và hình bóng ông bà tiên tổ cũng phảng phất trong đó.
Từ bàn tay chế tác của nghệ nhân, qua hàng nghìn độ lửa, đất sét thăng hoa thành gốm sứ. Đời người có thể xác định trong một khoảng thời gian. Chứ đời gốm, nếu không có thiên tai, địch họa hoặc tác động thô bạo nào đó thì bền bỉ với tháng năm. Một “cựu gốm” kể trong làng có anh chồng giận vợ, ném vỡ bình hoa. Vợ đau điếng, lẩn thẩn nhặt từng mảnh vụn. Lâu sau mới nói được, mà chỉ một lời đanh gọn: “Người như anh chỉ hợp với đồ nhôm”. Hối hận, anh chồng mua cái mới với giá tiền gấp ba. Vợ vẫn không vui, vì “trong cái bình cũ có kỷ niệm, có yêu thương, có cả vân tay của người thân đã khuất”. Gốm yêu hòa bình. Người thiếu tao nhã chớ nên chơi.
Lại có chuyện rằng chồng yêu gốm sứ hơn… yêu vợ, rảnh là nâng niu, ngắm nghía. Vợ hỏi ba cái đồ gốm vô tri có gì trong đó mà anh o bế? Chồng nói có chứ em. Gốm sứ âm thầm mà sâu sắc, càng lâu càng đẹp, và chỉ nói bằng im lặng. Không hiểu vợ “liên hệ bản thân” thế nào mà ấm ức, giận chồng cả tháng trời.
“Kết nối” với người xưa
Làng quê thuở trước dù nghèo nhưng nhà nào cũng có vài chục món gốm sứ gồm chén, bát, đĩa… dùng trong những ngày giỗ tết hoặc nhà có khách. Còn nhỏ không được cầm, tôi bò ra mê mẩn ngắm từng nét vẽ. Mục đồng thổi sáo trên lưng trâu, hai ông tiên đánh cờ, phong cảnh làng mạc đẹp hút hồn. Bức vẽ nào cũng thanh thoát, uyển chuyển. Rồi bom đạn. Nhà ai cũng vùi đồ sứ trong những bao trấu giấu kỹ trước khi chạy giặc. Lúc về thấy đồ đạc bị lục tung, những mảnh sứ vương vãi, “máu” của sứ trắng đến xót xa. Cả nhà ngồi lặng, tiếc ngơ tiếc ngẩn. Như con người, gốm sứ căm ghét chiến tranh. Tương đồng vậy nên gốm vỡ thì người đau lắm.
Nhớ những năm cuối cấp 3, bàn học của tôi gần bàn khách của ông nội nên được nghe nhiều về gốm sứ. Riêng cái chuyện ông kể với bạn mua cái độc bình ở đâu, đẹp như thế nào, giá bao nhiêu, đi lại mấy lần, thương lượng mấy buổi… tôi nghe thuộc luôn. Hai mái đầu bạc, hai chòm râu trắng, hai cốc rượu con, một cái độc bình “long phụng tranh châu” mà tốn hết mấy buổi chiều. Tôi hiểu và yêu gốm từ những lần như vậy. Ông nói gốm và người khi đã “duyên” với nhau thì xa mấy cũng gặp được nhau, tìm được nhau, gọi được nhau và bước vào bên trong đời nhau. Còn vô duyên thì món đồ trước mắt đó nhưng nó… không cho mình thấy.
Chơi gốm sứ thường là người già? Không hẳn vậy! Nhiều bạn trẻ tất bật với áo cơm nhưng vẫn yêu những khoảng lặng khi tìm đến sự tĩnh tại cùng gốm sứ. Họ hiểu, khi đất đi qua lửa, qua mồ hôi và bàn tay sáng tạo của người thợ, đất ấy đã hóa tâm hồn. Hình ảnh thiên nhiên trên gốm sứ gợi lên nhiều mỹ cảm. Ngắm một bông hoa dại rũ mềm, một cây tùng cứng cỏi, một khóm trúc thanh cao… trên đồ gốm sứ, trẻ hay già đều “kết nối” được với “những người muôn năm cũ”.
Trần Cao Duyên (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null