Hồn xưa giữa thời hiện đại

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Ít ai biết, để có những chiếc lọng xuất hiện trong các lễ hội địa phương mà nhiều người vẫn nhìn thấy thì việc giữ nghề trải qua bao thăng trầm. Ngày nay, tìm người ở Huế làm chuẩn nghề thật hiếm hoi. May thay, vẫn còn một gia đình đang sản xuất và sống được với lọng.
Còn rất ít hộ dân ở Huế theo đuổi với nghề làm lọng.

Còn rất ít hộ dân ở Huế theo đuổi với nghề làm lọng.

Giữ nghề làm lọng

Lọng hay đèn lọng đã quá quen thuộc với người dân xứ Huế, từ lễ nghi triều đình xưa cho đến những lễ cúng tế dân gian như cưới hỏi, đám tang, thu tế hay trưng bày thờ phụng trong các chùa, đình làng, nhà thờ họ.

Lọng được gọi là dù thần hay dù quan, hiểu nôm na là một cái dù to làm bằng tre dùng để che nắng, thời xưa việc đi lại của vua quan đều sử dụng lọng. Tùy theo cấp bậc và danh phận sẽ được bố trí bao nhiêu lọng và có mầu sắc phù hợp lễ nghi. Nhắc đến phường Phường Đúc người ta nghĩ ngay đến nghề đúc đồng vang danh cả nước. Nhưng không, ở làng nghề nằm dọc theo sông Hương này vẫn còn có nghề làm lọng, dù theo thời gian đã bị mai một nhiều.

Chúng tôi tìm đến ngôi nhà của ông Hoàng Ngọc Tuyên nằm đầu con hẻm trên đường Bùi Thị Xuân. Vừa bước vào cổng, tiếng mài vót tre, đan lọng lẫn tiếng nói của chục nghệ nhân không khác không gian của một làng nghề thu nhỏ. Hơn 80 tuổi, với thâm niên 30 năm làm nghề, dù thôi trực tiếp sản xuất nhưng ông Tuyên vẫn ngày ngày kề vai sát cánh cùng con cháu để bày lại ngón nghề có khả năng thất truyền này. Người nghệ nhân già không nhớ nổi những chiếc lọng có từ bao giờ, nhưng trong tâm thức của một người con lớn lên trên mảnh đất cố đô, ông biết lọng đã gắn liền trong đời sống văn hóa của người Huế. “Mấy chục năm trước những chiếc lọng là một phần không thể thiếu trong các nghi lễ dân gian của người dân Huế. Cùng với làm đồng, nhiều nhà quanh đây cũng làm thêm nghề lọng nhưng lạ thay, lại không có một xưởng nào làm nên sản phẩm chất lượng”, ông Tuyên nhớ lại và quyết định tìm hiểu, mày mò học nghề từ đó.

Không lâu sau, chiếc lọng đầu tiên ra đời. Cảm xúc khi ấy trong ông chẳng có gì ngoài hai từ vui sướng. “Lúc đó thiếu ăn, thiếu mặc, nên khi bắt đầu làm lọng, từng cây tre, cây nứa, hay lon sơn, tôi đều mua chịu. Dần dần, việc sản xuất rồi bán ra thuận lợi, tôi cũng trả xong nợ, tích cóp mở xưởng”, ông Tuyên kể lại. Cùng thời điểm đó, hàng xóm ông Tuyên cũng có nhiều hộ bắt tay với nghề này. Nhưng rồi tất cả tự đóng cửa với lý do bị khách chê chất lượng kém, thu nhập bấp bênh. Nhận ra điều đó, ông Tuyên đã lập tức cho cải tiến các sản phẩm theo hướng bắt kịp nhu cầu khách hàng, mẫu mã mang tính hiện đại nhưng vẫn giữ được hồn xưa truyền thống. Các phương tiện hiện đại phục vụ cho công việc như máy khoan, tiện, mài lần lượt được ông mua về, ứng dụng vào sản xuất.

Nhịp nhàng từng công đoạn

Làm nên một chiếc lọng tán đẹp và đúng với quy chuẩn xưa phải trải qua hàng chục công đoạn bằng bàn tay khéo léo của người thợ. Công việc này đòi hỏi nghệ nhân phải tỉ mỉ, có sự kỳ công và kiên trì. Các công đoạn sơ chế tre như cưa, uốn, khoan, chẻ, vót, phơi, sấy, sơn... cho đến các khâu lắp ghép, thắt, khâu, chạm trổ rồng phụng, tra cáng đều cần sự phối hợp nhuần nhuyễn.

“Đu tiên cần chọn những cây tre đực dài khoảng 2m, sau đó đem phơi khô, uốn thẳng rồi đánh bóng để làm thân lọng”, anh Hoàng Minh Quốc làm việc trong xưởng ông Tuyên giới thiệu. Theo anh Quốc, cũng giống như một chiếc dù khổng lồ, lọng cũng cần có sườn, chỉ khác là sườn được làm từ các nan tre. Các thanh tre được vót đều rồi ráp lại với nhau vào một khối gỗ tròn rỗng ruột làm trục gọi là “gen” để bung ra thu vào, rồi phủ lên đó lớp vải che.

Và để có những chiếc lọng xuất xưởng được khách ưng ý, không thể không kể đến đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ may “áo lọng”. Một trong những người đảm nhận khâu này là chị Hoàng Thị Âu Lim, chính là con gái của “truyền nhân” Hoàng Ngọc Tuyên. Chị Lim bảo rằng, do nhu cầu nên tùy theo sự kiện, lễ hội mà mầu vải phủ lên lọng cũng khác nhau. Trong cung đình, lọng thường sẽ có mầu vàng, thêu hình rồng, phụng, còn trong các tiệc cưới, hỏi, lọng sẽ mang mầu đỏ. Giá thành của mỗi đôi lọng cung đình cũng không cố định dao động từ 1,5-5 triệu đồng, tùy theo độ tinh xảo và yêu cầu của khách.

Hơn 30 năm đi vào hoạt động, hiện nay cơ sở làm lọng của ông Tuyên ngày càng nhận được nhiều đơn đặt hàng từ bắc vào nam. Nhiều người Huế xa quê cũng đặt hàng để mang sản phẩm này ra nước ngoài như là cách lưu giữ nét đẹp văn hóa Việt nói chung và của người Huế nói riêng.

“Cái lọng có đẹp hay không, người vót phải vót cái nan cho đều, người vô nan phải vô cho chặt. Người sơn phải sơn cho đều, đẹp. Sau đó là người đan, người vô lưới, tua. Mọi công đoạn phải nhịp nhàng, chỉn chu sẽ tạo ra một cái lọng đẹp”, anh Quốc giới thiệu.

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null