Giọt giọt Hạ uy cầm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Sự tò mò về Hạ uy cầm (loại nhạc cụ vang bóng một thời) đã dẫn đường chúng tôi đến thăm nhà ông Lê Văn An (làng Kê, thị trấn Chư Sê). Nghiêng nghiêng mái đầu bạc, ông say sưa tấu lên một bài vọng cổ. Như mưa rơi trên lá, tiếng Hạ uy cầm đọng lại giọt giọt trong tâm tưởng, thấm đẫm cả đất trời. 
Nghề báo với cơ hội gặp gỡ không ít người thú vị, truyền cảm hứng đã cho chúng tôi nhận ra một điểm chung rằng, đa số họ trở nên thú vị vì đã đi đến cùng với đam mê: nghiên cứu khoa học, sưu tầm tư liệu, cổ vật, chế tác nhạc cụ… Những người như họ chẳng khi nào nhàm nhạt. Ông An là một trong số đó.
Niềm yêu với Hạ uy cầm
Nâng niu cây Hạ uy cầm thứ 6 vừa được chế tác xong, ông An trầm giọng kể: “Hạ uy cầm (guitar Hawaii) là loại nhạc cụ có xuất xứ từ Mỹ, du nhập vào Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ trước. Buổi ban đầu, Hạ uy cầm được “phát minh” khi một người dân trên quần đảo Hawaii thử sáng tạo bằng cách đặt ngửa chiếc đàn thùng, kê dây cao lên, tay trái dùng một chiếc quẹt zippo hoặc thanh inox (gọi là block) để chặn dây thay vì dùng ngón tay bấm lúc chơi đàn, tay phải gảy bằng phím hoặc móng nhựa”. 
Là nghệ sĩ đàn ca tài tử, nhạc sĩ Thanh Kim là người đầu tiên “xé rào”, chỉnh  dây để “Nam Bộ hóa” cây đàn, làm dậy sóng các sân khấu ở Sài Gòn những năm 1950-1960. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng khác cũng bị tiếng Hạ uy cầm mê hoặc, trong đó có Đoàn Chuẩn. Với cây đàn này, nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đã sáng tác những tác phẩm nhạc tiền chiến bất hủ. Tùy theo cách chỉnh dây mà Hạ uy cầm có thể chơi được nhiều thể loại: đàn ca tài tử, cổ nhạc, tiền chiến, tân nhạc… 
Ngay từ khi còn nhỏ, cậu bé Lê Văn An đã mê đắm âm nhạc tài tử và những câu vọng cổ. Không mua được guitar phím lõm, cha mẹ cậu dành dụm mua tặng con cây đàn guitar điện (sau đó nhờ thợ khoét lõm phím đi) để chơi. Giá trị của cây đàn khi ấy tương đương 4 chỉ vàng! Chơi được vài câu vọng cổ, cậu bé hào hứng tham gia đội nhạc cổ truyền của địa phương gồm: cò, kìm, gáo, trống, phách, kèn… để phục vụ các buổi cúng đình. 
Ông Lê Văn An bên chiếc Hạ uy cầm. Ảnh: Phương Duyên
Ông Lê Văn An bên chiếc Hạ uy cầm. Ảnh: Phương Duyên
Năm 1967, khi đang tập tành chơi đàn guitar phím lõm thì cậu bắt đầu biết đến tiếng Hạ uy cầm đầy điêu luyện của nhạc sĩ Thanh Kim qua sóng phát thanh. Những thanh âm dặt dìu, não nuột “làm mưa làm gió” khiến bao người thổn thức. Ông An hồi tưởng: Tình yêu với Hạ uy cầm thổi bùng lên sau đó khi đoàn cải lương nức tiếng Sài Gòn 1 về lưu diễn ở An Khê vào khoảng năm 1972. “Tôi nài nỉ ba tôi mời ông thầy ở đoàn cải lương về dạy chơi guitar phím lõm và Hạ uy cầm, ba tôi ưng lắm nên bèn mời ngay. Đó là nhạc sĩ Thanh Quý. Tối chơi nhạc cho đoàn, ngày ông dạy đàn cho tôi”-ông An kể. Ngoài dạy đàn, người thầy đầu tiên này còn tặng ông cuốn ký âm pháp của Hạ uy cầm. Khi đó, ông vẫn chơi bằng cách đặt ngửa chiếc guitar phím lõm, kê cao dây, mở đĩa Thanh Kim ra tập dù khó cách mấy. 
Thấy chơi mãi theo cách trên không ổn, đến năm 1974, ông tự tìm gỗ trắc đẽo cho mình cây Hạ uy cầm đầu tiên. Nhờ một người bạn là thợ chuyên nghề điện tử giúp sức, ông học được cách quấn mô bin, lắp volume, công tắc cho cây đàn. Chỉ đơn sơ vậy mà chiếc đàn được ông xem như bạn tri âm cho đến tận bây giờ. 
Năm 1981, ông An vui mừng gặp lại nhạc sĩ Thanh Quý khi đoàn cải lương Sài Gòn 1 lại về An Khê biểu diễn. Nghe học trò dạo thử vài ngón đàn, ông thầy không khỏi gật gù: “Anh dạy nhiều đứa nhưng ít có đứa nào được như em. Tiếng đàn của em ngọt lắm!”. Nhạc sĩ Thanh Quý bèn rủ ông đi theo đoàn, đầu tiên là giữ chân kéo màn và phụ việc lặt vặt, sau đó sẽ được dạy đàn thêm để mai này thế chân ông. “Trong suốt 10 ngày đoàn ở lại biểu diễn, tôi không thể làm được việc gì ra hồn vì bị giằng xé ghê gớm giữa gia đình và đam mê”-ông An nhớ lại. Khi đó, ông là cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện An Khê, đã có 1 vợ, 2 con. Nếu chọn âm nhạc thì ông phải bỏ công việc, biền biệt xa vợ con, gia đình… Ngày cuối cùng, thầy trò đành ngậm ngùi chia tay. Nhưng tiếng đàn thì vẫn đồng điệu cùng ông, thành một phần tâm hồn nghệ sĩ dù suốt ngày ông dầm mình trên công trường, dù loại nhạc cụ này dần vắng bóng sau vài thập niên khuấy đảo để nhường chỗ cho những nhạc cụ điện tử hoặc có tính đại chúng hơn. Người chơi, người chế tác đều trở thành “của hiếm”.
“Nâng tiếng đàn xa đưa” (*)
Đam mê lớn vậy nhưng cũng có lúc ông An “bỏ rơi” âm nhạc đến...  20 năm. Đó là khi chuyện áo cơm, lo cho 5 người con ăn học trở thành phận sự cao hơn tất thảy. Năm 1997, ông rời công việc nhà nước, cùng gia đình mở một cửa hàng tạp hóa tại huyện Kông Chro. Đến năm 2007, cả nhà lại chuyển về Chư Sê, bản thân ông dốc sức cùng con trai mở công ty truyền thông. Tiếng đàn thành xa vắng giữa chừng ấy bộn bề. 
Cho đến khi những khó khăn tạm lui, ông lại chợt nhớ đến lời dặn của nhạc sĩ Thanh Quý lúc chia tay: “Em nhớ chơi đàn tiếp nghe, chơi ngọt như em nếu bỏ thì tiếc lắm!”. Lần giở chiếc Hạ uy cầm im tiếng bấy lâu, ông vuốt những bản đàn cũ tưởng chừng đã rơi vào lãng quên. Tay phải cầm phím gảy, tay trái nắm thanh chặn lướt nhẹ trên cần đàn. Bàn tay linh hoạt bao nhiêu, 6 dây reo vang nức nở bấy nhiêu. Tiếng đàn xưa mà không cũ bao giờ.
Cách đây 6 tháng, ông An chợt nảy ra ý định làm ra những cây Hạ uy cầm của riêng mình. Ông giãi bày: “Đàn bán ở các cửa hiệu thì nhiều nhưng không có sắc thái riêng. Hơn nữa, tôi thích một cây đàn mang dáng vẻ cổ kính. Vì vậy, tôi bắt đầu mày mò nghiên cứu làm cây đàn thứ hai”. Ông tìm mua những tấm gỗ quý thường được các gia đình ngày xưa dùng làm đồ gia dụng như tủ, kệ, miễn sao đảm bảo kích thước 20 x 92 x 3 cm để làm thân đàn và cần đàn. Phụ kiện thì đặt ở nước ngoài của các hãng có tiếng như dây của Elixir, mobin của Wilkinson, Alnico 5 để đảm bảo chất lượng âm thanh. Sau đó, ông nghiên cứu kỹ lưỡng, vẽ mẫu chi tiết. Vẽ đi làm lại cả chục lần mới ưng ý, ông hướng dẫn thợ làm theo đúng thiết kế rồi khảm trai. Không có bất cứ sự nửa vời nào trong mọi khâu làm đàn. Đến giờ, ông đã hoàn thiện được 6 chiếc. Dù không có ý định mua bán, ông cũng đành nhượng lại 2 cây cho những người có cùng niềm yêu với Hạ uy cầm.

Nhạc sĩ Nguyễn Triệu Phúc (con trai nhạc sĩ Thanh Kim), hiện đang sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh: “Gặp được người tri âm với tiếng đàn của cha mình rồi theo đuổi đam mê đến suốt đời, tôi thấy vui lắm. Cũng là người dạy Hạ uy cầm, theo tôi biết hiện giờ số người sử dụng loại đàn này rất ít, người vừa biết chơi vừa biết làm đàn thì càng hiếm. Ở TP. Hồ Chí Minh có nhiều chỗ bán Hạ uy cầm, nhưng từ trước tới nay tôi chưa gặp cây đàn nào như anh An đã làm. Cây đàn bằng gỗ quý, rất chất lượng, tiếng đàn chuẩn chỉnh, chưa kể mẫu mã duyên dáng, tinh tế. Chứng tỏ anh An nghiên cứu cây đàn này rất lâu rồi, bằng một tinh thần nhiệt huyết”.

Một trong những người đồng điệu là ông Lê Ngọc Anh (TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Từng công tác trong ngành Y tế, cũng do mải bận rộn với công việc nên sau khi về hưu ông mới dành cho mình chút thảnh thơi cùng tiếng đàn. Ông Ngọc Anh từ tốn cho hay: “Ngoài tiệm có bán Hạ uy cầm nhưng tôi không ưng, chất lượng gỗ hay mô bin đều không có gì đặc sắc. Trong khi đó, đàn do ông An làm bằng chất liệu gỗ quý, tiếng đàn hay nhờ sự am hiểu về âm thanh và điện tử. Hội tụ những yếu tố đó, ông An đã tạo tác cây đàn hoàn hảo, có một không hai”. 
Ở tuổi 66 trải qua nhiều thăng trầm, ông An khẳng định: Đam mê với chiếc Hạ uy cầm không giúp ông làm ra tiền. Vậy thì vì sao ông vẫn theo đuổi, vẫn nghệ sĩ đến tận cùng? Trả lời câu hỏi ấy, ông mỉm cười hồn hậu bảo, giá trị nó mang lại không kể xiết. Là bởi, âm thanh dìu dặt, thanh thoát khiến con người quên đi những trắc trở trong đời sống. “Có những lúc bực giận, thậm chí gặp khó khăn do làm ăn suy sụp, tôi đeo tai phone ngồi đàn một mình. Chỉ cần chơi 10-15 phút, người nhẹ bẫng lại”-ông tâm tình. Tiếng đàn khi ấy thành tiếng lòng, thành tri kỷ, nâng đỡ tâm hồn mẫn cảm. Hạ uy cầm còn mang đến cho ông những giây phút thăng hoa, đầy tâm cảm trong những buổi gặp gỡ bạn bè tuổi hoa niên.
“Tôi cũng chưa biết sẽ dừng lại ở cây đàn thứ bao nhiêu”. Đó là chia sẻ của ông An khi chúng tôi hỏi về dự định. Sẽ còn tiếp tục chế tác cho đến khi vẫn tìm kiếm được nguyên liệu phù hợp, gặp được người đồng điệu. Và có lẽ cho đến lúc dòng nhạc vẫn chảy tràn trong tâm tưởng, trong nỗi hoài nhớ, trong sự vô ưu về thời thế… 
----------------

(*) Lời bài hát “Dạ khúc” (Nguyễn Mỹ Ca & Hoàng Mai Lưu)

PHƯƠNG DUYÊN
 
 

Có thể bạn quan tâm

Gia Lai căng mình ngăn lửa, giữ rừng

Gia Lai căng mình ngăn lửa, giữ rừng

(GLO)- Giữa tiết trời nóng nực hơn 40℃, trên những ngọn núi, triền đồi, lực lượng bảo vệ rừng Gia Lai vẫn kiên nhẫn sải bước tuần tra. Khó khăn của thực tại là động lực để họ vượt lên nhằm ngăn ngừa "bà hỏa", giữ màu xanh của rừng cho mai sau.

Khát vọng phồn vinh

Khát vọng phồn vinh

Đất nước ta đã bước qua cánh cửa đói nghèo nhưng sự thịnh vượng của dân tộc vẫn còn ở phía trước, rất cần sự chung tay góp sức của mọi con dân nước Việt, nhất là thế hệ trẻ.
Đi trong hầm xuyên núi Đặng Thùy Trâm

Đi trong hầm xuyên núi Đặng Thùy Trâm

“Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hay một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây…”, tôi đọc đoạn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm trước giờ vào khu vực núi Chúa, nơi đang thi công hầm xuyên núi thuộc dự án cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn.
Sống ở TP.HCM: 'Cắt tóc trời' kiêu hãnh tháng năm, yêu nghề đến lạ

Sống ở TP.HCM: 'Cắt tóc trời' kiêu hãnh tháng năm, yêu nghề đến lạ

Ở TP.HCM, có những người dành hơn nửa đời để làm đẹp khuôn mặt, mái đầu cho thiên hạ. Không biển hiệu, không tiện nghi hiện đại và chỉ với chiếc ghế bành sờn da, chiếc gương cũ và bộ đồ nghề, nhiều năm qua những người thợ cắt tóc vỉa hè đã góp phần làm nên một nét văn hóa rất đặc trưng của TP.HCM.
Người trở về

Người trở về

Sự trở về là minh chứng sinh động cụ thể nhất cho việc vượt qua định kiến và mặc cảm về những gì họ đã từng nghĩ, từng hành động.