Đã rất nhiều lần gặp ông Siu Pui (Ama Thương, SN 1931)- nguyên Chủ tịch Ủy ban Quân quản thị xã Cheo Reo (thị xã Ayun Pa ngày nay), xung quanh ông luôn có rất nhiều người trò chuyện nên tôi đành phải “kính nhi viễn chi”. Nay ông về thăm quê nhà, thanh thản ngồi nghỉ ngơi giữa làng Djrêk (xã Nhơn Hòa- Chư Sê), tôi mới có dịp diện kiến. Khi nghe tôi hỏi chuyện về những ngày tháng chống Mỹ, giải phóng các tỉnh Tây Nguyên, thống nhất đất nước, ông bỗng trầm lặng hồi lâu như tưởng nhớ đến các đồng chí, đồng đội, rồi mới chậm rãi kể:
Ông Siu Pui. Ảnh: Hoàng Cư
Mùa Xuân năm 1975, ông giữ cương vị Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Đak Lak. Nhận nhiệm vụ, ông trực tiếp chỉ huy lực lượng tiền phương tỉnh Phú Bổn (gồm thị xã Ayun Pa cùng các huyện Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa và một phần lớn huyện Chư Sê), Đại đội 303 Đặc công của tỉnh Đak Lak phối hợp với quân và dân tỉnh Gia Lai cùng Sư đoàn 320 thực hiện trọng trách thu hút địch hướng về phía Bắc Tây Nguyên để chúng ta dễ bề tấn công thị xã Buôn Ma Thuột, tiến tới giải phóng các huyện H4, H5, H37 (Ea H’Leo, Ea Kar, Krông Buk- Đak Lak); các đồn bốt ở Nhơn Hòa, ngã ba Cheo Reo, Hbông (Chư Sê)... Sau khi quán triệt, thống nhất chủ trương phối hợp, chuẩn bị đầy đủ mọi nhân vật lực, khí tài…; đúng 6 giờ ngày 8-3, Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320 đã phối hợp với quân, dân địa phương nổ súng tấn công cứ điểm Cẩm Ga (thị trấn Chư Sê) và Thuận Mẫn (thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đak Lak). Sau 2 tiếng đồng hồ tấn công bất ngờ, táo bạo; chúng ta đã làm chủ được hoàn toàn trận địa. Thừa thắng, ông và đồng chí Sơn- Chính ủy Sư đoàn 320 nhanh chóng chỉ đạo các cánh quân thần tốc tấn công vào thị xã Cheo Reo và chặn đánh quân địch tại đèo Cư Djrê (thuộc Ea H’Leo- Đak Lak), cắt đứt đường tiếp viện của địch trên quốc lộ 14, tạo vành đai thép cô lập, diệt viện binh địch ở thị xã Pleiku và thị xã Buôn Ma Thuột.
Trước sự tấn công như vũ bão của quân và dân ta, ngày 16-3, Quân đoàn 2 của địch đã bị thất thủ trận tuyến thị xã Cheo Reo, tháo chạy bạt mạng theo đường số 7 (quốc lộ 25 ngày nay) về hướng tỉnh Phú Yên. Sáng ngày 17-3, ta đã tiêu diệt phần lớn sinh lực địch, bắt giữ trên 3.000 tù binh, thu giữ khoảng 200 xe tăng, 150 khẩu pháo… Cũng trong thời gian này, 2 tiểu đoàn thuộc Quân đoàn 3 của địch đã bị quân và dân ta tiêu diệt ngay trên đường tiếp viện cho mặt trận Buôn Ma Thuột. Chiều ngày 17-3, ta tiếp quản thị xã Cheo Reo, chính thức giải phóng hoàn toàn tỉnh Phú Bổn cũ. Sau thời gian nổi dậy hỗ trợ bộ đội chủ lực, kêu gọi địch bung súng đầu hàng, vận động và ổn định khoảng 2 vạn dân chạy loạn, giữ gìn trật tự…; ngày 20-3, ta tổ chức mít tinh quần chúng tưng bừng, hoan nghênh tinh thần chiến đấu quả cảm của quân và dân, đồng thời thành lập và công bố Ủy ban Quân quản thị xã Cheo Reo.
Những ngày vui đại thắng ở Cheo Reo, ở Thuận Mẫn và đặc biệt nhất là TP. Hồ Chí Minh- ngày 30-4-1975, làm ông nhớ mãi. Những ngày này, người người, nhà nhà đều hân hoan, vui vẻ; cờ hoa, biểu ngữ, khẩu hiệu… tràn ngập trên các con đường. Ông rất tự hào đã đóng góp một phần công sức của bản thân làm nên những chiến thắng thần kỳ đó. Càng tự hào hơn khi mỗi lần về thăm quê, ông đều tận thấy dân làng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau làm ăn, phát triển kinh tế, văn hóa…
Vượt qua những triền cát nóng bỏng dài hàng kilomet trên đảo Ngọc Vừng (Quảng Ninh), thầy Lưu Thế Sơn lặn lội đến tận nhà học trò để vận động gia đình cho các em tới lớp. Đây là công việc gian khổ mà các giáo viên ở đảo xa phải làm để truyền ngọn lửa tri thức.
Giữa đồi Ghềnh Ráng hoang vu, có một người đàn ông tuổi ngoài ngũ tuần, ngày đêm cần mẫn viết thơ Hàn Mặc Tử lên phiến gỗ và giấy bản bằng bút lửa. Ông làm không vì nặng gánh mưu sinh, mà muốn lưu giữ di bản và truyền bá rộng rãi thơ Hàn Mặc Tử đến người yêu thơ trong và ngoài nước. Khát vọng lớn nhất của ông là lưu giữ di bản và truyền bá thơ Hàn Mặc Tử đến thế hệ trẻ Việt Nam và bầu bạn thế giới. Ông là Trương Dzũ Kha - người nghệ sĩ truyền khắc thơ Hàn Mặc Tử quên cả thân mình.
(GLO)- Với mong muốn lưu giữ nét văn hóa Tây Nguyên cho thế hệ sau, anh Nguyễn Văn Hưng (46 tuổi, thôn 6, thị trấn Chư Prông, huyện Chư Prông) đã đến nhiều nơi để sưu tầm hàng chục ngàn hiện vật, cổ vật quý hiếm của hầu hết các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên về lưu giữ và trưng bày tại nhà mình. Việc làm có ý nghĩa này của anh được ngành Văn hóa tỉnh khuyến khích và đánh giá cao.
(GLO)- Cách đây 60 năm (ngày 7-5-1954), Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã ghi một dấu son sáng chói trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta. Trong khoảng không gian và thời gian này, trong lòng của rất nhiều người con đất Việt, rưng rưng những xúc cảm nuối tiếc khi nhớ đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp-vị tướng của nhân dân.
Tự nhận mình là “khùng” khi cứ suốt ngày lọ mọ với giấy, sau 11 năm đeo đuổi giấy như một cái nợ, họa sĩ Phan Hải Bằng, giảng viên Bộ môn Đồ họa, Trường đại học Nghệ thuật (Đại học Huế) đã làm nên những loại giấy và những tác phẩm tranh bằng giấy mộc mạc mà cuốn hút đến ngỡ ngàng...
Trồng nấm ăn đã khó, trồng được nấm linh chi để chữa bệnh hiểm nghèo càng khó hơn. Thế mà, ở Quảng Ngãi có một nông dân duy nhất đã kiên trì học và trồng được loại nấm này. Anh là Lê Giang Phong ở xã Đức Nhuận, Mộ Đức.
Văn hóa truyền thống ở Tây Nguyên nếu không được bảo tồn một cách tích cực thì sẽ mất dần trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ hôm nay và sẽ thay vào đó những thứ văn hóa ngoại lai. Nghệ nhân Y Thim ở Buôn Yă- Đak Lak mở đầu câu chuyện về việc bảo tồn...
“Trên đời này còn nhiều người nghèo khó lắm. Mình may mắn có được cuộc sống khá giả, vì vậy phải quan tâm chia sẻ tới những người nghèo. Giúp người nghèo khó là hạnh phúc của mình”- đó là tâm sự của bà Lâm Thị Liễu- Chủ tiệm vàng Mỹ Oanh (thị xã An Khê, Gia Lai).
Ở Gia Lai có hai người Bahnar nổi tiếng cùng được hai nhà văn quân đội vinh danh ngay từ khi các ông còn sống. Đó là Anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc và họa sĩ Xu Man trong Cuộc đời nghệ sĩ Xu Man của Trung Trung Đỉnh.
Chúng tôi về làng Đak Giang 2, xã Đông, huyện Kbang để tìm hiểu thực hư câu chuyện già Đinh Yem hiến đất của mình cho 6 đôi trai gái nghèo trong làng cưới nhau làm nhà ở. Những người trong cuộc thì cho rằng “già Yem như ông bụt trong câu chuyện cổ tích thời hiện đại”, người khác lại cho rằng “ông đúng là bị… hâm, bởi thời buổi tấc đất, tấc vàng lại đem cho không người ta”...
Đã gặp và đi với chị không ít lần trong các hoạt động cứu trợ, từ thiện, đã tưởng người phụ nữ nhỏ nhắn này rất đỗi thân quen rồi, ấy thế mà có dịp ngồi lại trò chuyện, tôi lại ngỡ ngàng...
Bằng ý chí lao động phi thường, Nguyễn Đình Khánh - Thôn 3 xã Chư Gu (Krông Pa) đã tạo dựng nên cơ nghiệp trị giá tiền tỉ. Nhưng điều quan trọng hơn là người cán bộ Hội Nông dân này với uy tín của mình đã xốc dậy một phong trào sản xuất giỏi, xây dựng hội vững mạnh…
Nói đến Nghệ sĩ Nhân dân Y Brơm là nói đến một nghệ sĩ sôi nổi nhiệt tình với cách mạng và với văn hóa nghệ thuật. Tính cách đặc biệt đó của ông, dù chỉ gặp một lần cũng khó mà quên.
Bật dây dạo một nét nhạc, nghệ sỹ ưu tú Thảo Giang cầm cây đàn xù xì khoái tra cười rồi hỏi tôi: “Có giống lời người thổ lộ tình cảm không? Nó là cây đàn tán gái đó”. Tôi chưa thể hiểu được lời anh nói. Có lẽ vì tiếng đàn nỉ non, réo rắt như lời thủ thỉ, tâm tình của trai gái lúc mới yêu nhau?
Chị mừng vui khi thấy số lượng chiêng ché tăng nhanh, những phong tục truyền thống tốt đẹp được khơi dậy. Yêu văn hóa của dân tộc mình, chị cũng mong những hủ tục sẽ bớt dần rồi được xóa bỏ vĩnh viễn để mọi người, nhất là những người phụ nữ Jrai, sẽ có một cuộc sống văn minh, tốt đẹp.
Tôi biết anh Năm Vinh (tên thật là Võ Trung Thành, còn có bí danh khác là Lê Tâm, Lê Trung, Bă Mônh) từ năm 1952. Mặc dù anh ở khu 1 (Kbang) còn tôi hoạt động ở khu 5 (Đức Cơ), chỉ thỉnh thoảng về họp hoặc anh lên dinh điền công tác mới gặp nhưng chúng tôi rất hiểu nhau.
Trong những câu chuyện không đầu không cuối đó, một cán bô huyện chợt kể về một cán bộ phụ nữ xã có tên là H’Noanh...Cảnh đời éo le của chị làm xúc động mọi người. Đoàn quyết định sáng ra sẽ quay lại làng Bạc tìm H’Noanh bằng được…
Hiện nay võ sư Văn Xuân Thông sử dụng thành thạo nhiều kỹ thuật, động tác khó, nhiều bài quyền nổi tiếng trong “thập bát ban võ nghệ” của Võ cổ truyền Việt Nam như: Đao, kiếm, côn, phủ (búa), thương, cung, lăng khiêng, quyền, xung kích…