Rừng-biển kết nối

Đêm Quy Nhơn nghe hát bội, bài chòi...

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Đêm Quy Nhơn nghe hát bội, bài chòi, lời ca tiếng đàn đã khép lại mà âm vang “đất võ trời văn” còn động vọng...

Sân khấu tuồng ở miền “đất võ trời văn” trong bối cảnh sáp nhập dung chứa những ý nghĩa và dư vị thật đặc biệt. Thú thực, tôi đã mang tâm thế của người phố núi vốn quen thuộc với cái vời vợi, khoáng đạt trầm hùng của cồng chiêng đại ngàn mà tò mò và háo hức tịnh túc trong không gian sân khấu tuồng - khán phòng của Nhà hát nghệ thuật truyền thống Gia Lai vào một đêm đặc biệt-12/8 âm lịch-kỷ niệm Ngày Sân khấu Việt Nam.

Nghệ thuật tuồng xứ nẫu mang bản sắc địa phương, thể hiện chất võ thuật rất mạnh mẽ, cuốn hút. Ảnh: Phan Lài

Theo thời gian, sân khấu truyền thống của xã hội hiện đại vừa gần vừa xa trong tâm thế sáng tạo và tiếp nhận. Điều đó cũng đồng thời tạo nên sức hấp dẫn và cả những thách thức riêng cho nghệ sĩ và khán giả.

Bục diễn, âm thanh, ánh sáng, phông rèm và đạo cụ dựng nên một không gian diễn xướng đầy lạ lẫm. Rực rỡ ánh đèn lấp lóa theo từng họa tiết và chuyển động của trang phục tuồng vốn giàu tính tượng trưng. Trong không gian diễn xướng ấn tượng, ánh sáng và màu sắc phần nào lẩy được cái hồn cốt của các trích đoạn tuồng cổ.

Lần đầu được xem trích tuồng nổi tiếng “Tam Anh chiến Lữ Bố” cảm giác thật thú vị. Kép chính vào vai Lữ Bố đã mang đến một màn trình diễn mãn nhãn. Bộ trang phục trắng đính kim sa lấp lánh và miện lông trĩ được trưng hoạt điệu nghệ, làm toát lên thần thái uy nghi, đắc ý của một điển tướng lẫy lừng.

Trò diễn kết hợp điệu vũ đậm chất võ thuật trong trận thư hùng đã giúp khán giả cảm nhận rõ thế giằng co gay cấn, quyết liệt giữa hai mãnh tướng. Hình ảnh Trương Phi đâm thế hiểm làm Lữ Bố mũ rơi, tóc xõa đậm chất ước lệ: kẻ ưa vuốt tóc chuốt mũ giờ mũ rơi miện rớt, kẻ chiến thần bất bại giờ sa cơ thất thế. Cái lúng túng, cuồng phẫn của Lữ Bố khi rơi vào thế hạ phong đã được kép tuồng nhập vai trọn vẹn. Tiếng trống chầu và thanh la giục giã sát rịt từng bước chân người nghệ sĩ, không còn lời, chỉ còn thanh âm nhạc cụ và ngôn ngữ hình thể của đầu, tay, chân, mắt kết hợp thành cao trào kịch tính khiến người xem nín thở.

Nghệ thuật trình diễn giàu biểu trưng và màn vũ đạo đậm chất “đất võ” đã làm cho tuồng cổ Bình Định ẩn chứa một nét đẹp riêng đầy cuốn hút, dũng mãnh, dứt khoát mà điệu nghệ. Tôi ấn tượng với đôi hia đế vút cao và mũi hia cong vênh của Lữ Bố. Nó như một loại trang phục ngầm khẳng định tầm cỡ điêu luyện của người biểu diễn. Thì ra, trang phục này cũng là một loại đạo cụ đặc biệt có thể diễn tả những trạng thái cảm xúc đa dạng của nhân vật qua một số nguyên tắc ước định: khi tâm trạng bình thường thì đi bằng gót, khi lo lắng run sợ sẽ đi hàng ngang vào khoảng giữa đôi hia, còn lúc giận dữ thì cứ nện dồn đằng mũi mà nhấn bước.

Xem một nghệ sĩ kép tuồng khéo léo, lão luyện chuyển động trên đôi hia làm bằng gộc tre kết hợp hát, múa, diễn trò cùng lúc trong vai diễn khiến người xem vừa thương vừa thán phục. Khổ luyện và đam mê đã khiến họ trở thành những nghệ nhân, nghệ sĩ quyền năng thực thụ.

Chăm chú theo dõi một trích đoạn tuồng cổ điển, với khán giả nói chung đó là sự thưởng thức giàu chiêm nghiệm, nhiều suy tư mà ít tính giải trí, bởi phải “vỡ” cho được những ký tín hiệu mang tính ước lệ biểu tượng của sân khấu truyền thống, phải bắt nhịp cho kịp cấu trúc nói lối-hát Nam vừa hô ứng đăng đối nhịp nhàng “vế trống”, “vế mái” vừa chuyển động điệu tình lúc Ai, lúc Xuân, lúc Oán, lại “căng” mình dõi theo lối diễn tuồng lắm kịch tính, cao trào rút trong sử ký.

Sức hấp dẫn của sân khấu tuồng có lẽ nằm ở hiệu ứng “rộn - giao” từ âm thanh trống chầu, kèn, nhị, của trang phục bắt sắc bắt mắt đập vào thị giác, của vũ điệu, trò diễn và lời ca chói lói, nhấn nhá. Người xem bị cuốn hút hoàn toàn thần trí vì tai, mắt phải dồn về sân khấu.

Còn đào, kép sau mỗi cuộc hóa thân vào vai là một sự đốt cháy mình đến tận cùng bằng lửa nghề đam mê. Đâu ai biết, rồi sớm mai có nghệ sĩ không chuyên nào vừa trút mũ miện xiêm y đã trở về với chân trần tay cuốc, nhẩn nha ngân nga lời tuồng cổ câu hò trong mênh mang ruộng đồng để mong đêm mai sân khấu lại sáng đèn.

Cân bằng giữa tính bác học và dân gian, độ “căng”-“chùng” trong tâm thế tiếp nhận, dường như sân khấu biểu diễn truyền thống thường chọn sự luân phiên hài hòa giữa trích đoạn tuồng cổ và lối diễn bài chòi. Những bài chòi Bình Định giàu sắc điệu vút cao từ ruộng lúa, ngân nga qua những mái nhà trung du yên bình đưa tôi trở về với những gì trầm ấm nguyên sơ, thuần hậu của người lao động.

Dân dã mà cũng thật nghệ thuật, ở đó “túi khôn nhân loại” mượn từ ca dao, tục ngữ, dân ca ngân vang thành những điệu xướng, câu hò, lời hiệu. Giữ mãi chất sống rười rượi nồng đượm khỏe khoắn mà hồn hậu thôn quê.

Đêm Quy Nhơn nghe điệu cổ tuồng, chòi, lời ca tiếng đàn đã khép lại mà âm vang “đất võ trời văn” còn động vọng. Hào sảng và chữ nghĩa, đam mê và “vốn liếng” thổ ngơi vùng tổ nghệ đã làm nên bản sắc riêng cho tuồng, chòi Bình Định, chắt chiu thêm trong nắng gió khó nhọc miền trung vị mặn mòi đậm đà chân chất, không hoa mĩ, điệu đàng mà cứ khiến lòng người say.

Mọi vật dẫu có đổi thay, nhưng có điệu hát câu hò nào ngân rung trong cổ họng mỗi con người, không bắt nguồn từ dòng lạch mát lành của giếng nước quê hương? Nghe hát bội, bài chòi giữa lòng phố biển, nhắm mắt, mong hoài, ánh đèn vàng của sân khấu tuồng cứ sáng bừng vào đêm.

KIM THOA

Có thể bạn quan tâm