Côn Đảo - Từ địa ngục tới thiên đường: Vời vợi một thời

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Năm 1975, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Nam - Bắc đã đưa non sông về một dải. Tại Côn Đảo vào đêm 30/4, Đảng uỷ Côn Đảo đã lãnh đạo các tù nhân chớp thời cơ hành động, cướp chính quyền và làm chủ Côn Đảo, chấm dứt 113 năm là “địa ngục trần gian”.
Trong những lần tới Côn Đảo trước đây, chúng tôi hay tới gặp ông Phan Hoàng Oanh (Tự Bảy Oanh- nay đã mất)- Một trong 150 cựu tù đã tình nguyện ở lại với Côn Đảo sau ngày đất nước thống nhất. Ông Oanh kể về những ngày gian khó của Côn Đảo sau 1975. Theo ông Oanh, trước năm 1975 mảnh đất Côn Đảo chỉ có những người tù, quản ngục và gia đình họ sinh sống. Sau ngày 30/4/1975, toàn bộ quản ngục cùng gia đình họ bỏ về đất liền. Ngày 5/5/1975 những chuyến tàu đầu tiên của quân Giải phóng đã đón những cựu tù đầu tiên rời khỏi “Địa ngục trần gian”. Tới ngày 20/5/1975, chuyến tàu cuối cùng rời Côn Đảo đưa hơn 7.000 cựu tù về đất liền, tuy nhiên ông Bảy Oanh tình nguyện ở lại với Côn Đảo.
Theo ông Oanh, Đảng ủy Côn Đảo đã vận động những cựu tù còn trẻ tuổi, có sức khoẻ ở lại để giữ bình an cho Côn Đảo. Những ngày đầu sau ngày đất nước thống nhất, những người tình nguyện tại Côn Đảo phải làm rất nhiều việc như bảo vệ an ninh trật tự, tiếp nhận và vận hành các cơ sở hạ tầng của chế độ cũ, tu sửa nghĩa trang, gìn giữ và bảo quản các hiện vật của những người tù để lại… Hệ thống chính quyền mới cũng được dựng lên, nhiều cán bộ quản lý cũng được tăng cường từ đất liền để dần dần, Côn Đảo hình thành một lớp dân cư mới.

Một góc Côn Đảo
Một góc Côn Đảo
Ông Bảy Oanh kể lại những ngày đó, cuộc sống của người dân trên đảo gặp rất nhiều khó khăn. Xa đất liền, phương tiện giao thông lại thiếu thốn nên có những lúc biển động, có khi cả tháng trời mới có tàu từ đất liền tới tiếp tế cho Côn Đảo. Về lương thực thực phẩm ở Côn Đảo cũng không đến nỗi khó khăn lắm bởi người dân vẫn trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt hải sản. Nhưng về y tế giáo dục hay thông tin thì người Côn Đảo vô cùng thiếu thốn. Từ những năm 80, Côn Đảo chỉ có vài học sinh đi học nên để đủ cho 1 lớp học, các thầy cô phải đưa các em vào học cùng với những người tham gia lớp bổ túc văn hóa. Không có giáo viên, nhiều cán bộ phải kiêm nhiệm như cán bộ văn hoá thì dạy Văn, các cán bộ kỹ thuật thì dạy Toán, y sỹ dạy Sinh… Có khi trong 1 phòng học có tới mấy bậc học.
Còn ông Đoàn Hữu Hoài Minh- Nguyên phó ban quản lý Di tích Côn Đảo cũng kể về cuộc sống đầy khó khăn của người dân Côn Đảo trong những năm sau ngày đất nước thống nhất. Ông Minh cho biết, ngày đó tại Côn Đảo chỉ có một trạm Quân y do Quân đội quản lý. Việc đau ốm, bệnh tật của người dân đều trông vào trạm này. Với những ca bệnh nặng phải đưa vào đất liền nhưng tàu khi có khi không, máy bay chỉ có trực thăng nhưng rất ít chuyến. “Khó khăn nhất là thông tin. Ở trên đảo, muốn gọi điện thoại vào đất liền phải đăng ký hẹn giờ tại bưu điện với người thân trong đất trước vài ngày. Đúng giờ hẹn ra bưu điện, gọi điện bằng chiếc bộ đàm những chiếc tàu cá hay dùng. Còn thư từ có khi viết cả tháng không chuyển đi được vì biển động”- Ông Minh kể.
Còn bà Trần Thị Ni (Tư Ni), cựu tù Côn Đảo tâm sự, ngày đó Côn Đảo chỉ phát điện bằng máy nổ. Nhiên liệu khó khăn nên chỉ buổi tối, người dân mới có chút ánh sáng đèn điện để dùng vài tiếng. Rồi sau đó cả Côn Đảo lại chìm vào bóng đêm. “Người dân Côn Đảo khi đó mới có chừng khoảng trăm hộ. Buổi tối vắng vẻ, xung quanh toàn nghĩa trang và nhà tù nên âm u lắm. Đã có người chịu không nổi nên ra đảo chừng vài tuần, có tàu là bỏ về đất liền ngay. Chúng tôi thì quen rồi, chung quanh toàn đồng đội anh em sao chúng tôi lại bỏ về? Khó thì khó chung với mọi người, trong đất liền cũng khó chớ bộ”- Bà Tư Ni nói.

Phòng Trưng bày lưu niệm Nữ Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu
Phòng Trưng bày lưu niệm Nữ Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu
Những năm 80, tàu đánh cá là phương tiện duy nhất kết nối với Côn Đảo. Cuối những năm 80, đặc khu Vũng Tàu- Côn Đảo đã đóng chiếc tàu chuyên chở khách đầu tiên tới Côn Đảo. Chuyến hải hành đầu tiên từ Vũng Tàu tới Côn Đảo, con tàu bị mất hút. Khi đó nhiều người đã nghĩ tới chuyện tàu đã bị những kẻ vượt biên cướp thì còn tàu lại lù lù xuất hiện tại cảng Vũng Tàu. Những người đi trên tàu kể do tàu bị sự cố kỹ thuật nên tàu lệch hướng, mãi khi biết bị lạc, không tìm được hướng tới Côn Đảo nên thủy thủ đoàn đành quyết định cho tàu trở lại nơi xuất phát. Ông Minh kể, ngày đó người Côn Đảo thường thèm ăn bánh mỳ vì đảo ít dân, không có lò nướng nên món bánh mỳ không hiện diện trên đảo. Vì thế mỗi lần vào đất rồi quay trở lại Côn Đảo, nhiều người thường chọn mua bánh mỳ làm quà cho mọi người. Mua xong chưa kịp đem xuống thì tàu lại không đi do biển động. Thế là toàn khu hậu trạm (nơi đón tiếp những người chuẩn bị ra Côn Đảo) trở thành điểm... phơi bánh mỳ để khỏi bị mốc. Rồi khi có chuyến tàu khác, bà con lại vay tiền mua bánh mỳ mới để chuẩn bị ra đi. Nhưng rồi tàu lại đình chuyến, lại phơi. “Có khi nhiều bà con phải nằm ở khu hậu trạm cả vài tuần, tự mua thực phẩm nấu ăn để chờ chuyến đi”- Ông Minh kể.
Sự xa cách với đất liền khiến những người dân Côn Đảo tự hình thành một thói quen “Có 1 không 2” là thói quen đi đón tàu. Cứ hôm nào nhà đèn sáng nhiều hơn bình thường là mọi người lại hỏi nhau: “Hôm nay có tàu ra phải không?”. Và cứ thế, hàng trăm người tới bến tàu chờ đợi. Khi con tàu cập bến, người dân reo hò, nhìn từng khuôn mặt khách bước lên và gọi tên từng người quen. Với khách lạ thì “Chú ở chỗ nào? Lên công tác Côn Đảo lâu không?” và chỉ sau 1 ngày, ai cũng biết tên, biết mặt khách, thân thiết với khách như người nhà. Ông Minh nói thêm: “Đón tàu trở thành nét văn hoá rất riêng của người Côn Đảo bởi cuộc sống tinh thần còn thiếu thốn, mỗi lần tàu ra là người Côn Đảo lại có thư có quà của người thân, có sách báo lương thực, thuốc men. Mỗi người đến với Côn Đảo đều được coi là khách quý”.
Ông Minh đưa tôi đi xem những bức tranh mà ông vẽ trong suốt những năm sống tại Côn Đảo. Dù cuộc sống ngày đó nhiều khó khăn nhưng trong các bức tranh lại thể hiện một Côn Đảo bình yên với con đường ven biển thơ mộng, với những bức tường rêu phong của nhà tù, với con tàu cá đang băng sóng để ra khơi. “Khó khăn ngày đó là khó khăn chung của đất nước mà ai cũng đã trải qua. Tôi chỉ nghĩ rằng để có ngày hôm nay, chúng ta có thể tự hào đã kiên trì vượt qua giai đoạn khó khăn đó”- Ông Đoàn Hữu Hoài Minh nói thêm.
Theo TRỌNG THỊNH (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null