Chuyện tình thời chiến: Mối tình day dứt của bác sĩ Đặng Thùy Trâm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

"Em ngã xuống mà tim anh đau suốt bấy năm trường. Khi em còn sống, ta im lặng. Im lặng thực sự. Khi em chết rồi, ta mới nói thực sự yêu em", người yêu bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm viết.

 Gian trưng bày của bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam (Hà Nội) có hai bức thư được đặt cạnh nhau. Đó là thư của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm gửi người yêu có tên là M. Phía bên kia là bài thơ thay lời hồi đáp cho bức thư của Đặng Thuỳ Trâm. Người con trai đó ký tên là Mộc.

 

Bức thư của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm gửi Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.
Bức thư của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm gửi Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.

Đừng nói nữa mà lòng anh đau

Bức thư được viết ngày 17/3/1969. 48 năm đã trôi qua, mỗi dòng, mỗi chữ dường như vẫn thổn thức nhịp đập của người con gái phải yêu trong day dứt. “M ơi! Ta đã thực sự xa nhau rồi đó ư? Anh Tấn về không đem một tin nào của anh cả. Anh ở đâu? Sao em vẫn thấy trái tim mình rỉ máu, vết thương của con tim sao khó lành đến vậy?”.

“Chiều nay ở đây và ở đó ta cùng đang trong cuộc chiến đấu nóng bỏng, ta cùng chung nhịp thở của những người đồng chí vào sinh ra tử có nhau, vậy mà... sao lại xa cách đến thế này hở người đồng chí yêu thương?”.

Bức thư dường như là lời thổ lộ từ những trang nhật ký mà ở đó hình ảnh của M luôn hiện diện trong cuộc sống nơi chiến trường ác liệt của Đặng Thuỳ Trâm. Chị nhớ anh ngay cả khi cận kề giữa sự sống và cái chết.

“Có lúc nào đó giữa hai tràng tiếng nổ em nghe tiếng thì thầm của trái tim... Đó là khuyết điểm không thì tùy người đánh giá... Mong anh được bình an và khỏe, mãi mãi là người giải phóng quân cầm súng mà tâm hồn không chỉ có lửa đạn...?”.

Có lẽ một lúc nào đó giữa chiến trường, hai người cùng nghe tiếng bom rơi xé toạc màn đêm. Người con trai đó nhớ người yêu cả khi khối bộc phá 10 cân nổ tung thành tiểu khu Quảng Ngãi hất anh bay lên. Trước khi rơi xuống đất và ngất lịm đi, anh tưởng như vẫn nghe được tiếng hát người yêu lượn trên sóng biển.

 

Bài thơ Khương Thế Hưng hồi đáp người yêu. Ảnh tư liệu.
Bài thơ Khương Thế Hưng hồi đáp người yêu. Ảnh tư liệu.

Nhưng đáp lại sự tha thiết của người yêu, anh nén lòng mình lại. Anh viết:

“Không bao giờ anh quên

Lương tâm người cầm súng

Vì niềm vui đất nước

Anh sẵn sàng hy sinh

Vì hạnh phúc của em

Anh chịu phần đau khổ… riêng mình

Chỉ vậy thôi, em ơi!

Đừng nói nữa!

Mà lòng anh đau”.

M hay Mộc là bút danh của một người lính tên Khương Thế Hưng (con trai nhà thơ Khương Hữu Dụng). Trong những kỷ vật đại tá Khương Thế Hưng để lại sau khi qua đời (1999) có bức ảnh bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Mặt sau của tấm ảnh là bút tích của Khương Thế Hưng ghi: “7/1971 - Trận càn Lữ 11, Sư đoàn America vào hậu cứ Đức Phổ. Hy sinh ở tuổi 25, người nữ bác sĩ còn quá trẻ. Nhưng không còn trẻ nữa với người con gái chưa có được niềm vui của hạnh phúc tình yêu…

Ôi! Nếu mình biết được trong hai ta, người ngã xuống trước lại không phải là mình, có lẽ mình đã không phạm phải lỗi lầm để biển cả im lặng không dội lại âm vang của tiếng hát Xa Khơi đêm Thuỳ tiễn mình đi vào trận đánh Mậu Thân năm 1968… Vậy đó, Thuỳ ơi…”.

 

Một bức ảnh của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và bút tích của đại tá Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.
Một bức ảnh của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và bút tích của đại tá Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.

Tình yêu day dứt giữa bom đạn

“Những người đi chiến đấu/ Không muốn nặng thêm khẩu súng/ Một mối tình quá xa? Và nhất là/ Nỗi ân hận quá nhiều/ Bắt một người yêu/ Phải đợi…”.

Nhà thơ Khương Hữu Dụng, cha của Khương Thế Hưng, đã thay con trai  viết nên những câu thơ trên để lý giải sự im lặng khó hiểu, hay sự tan vỡ lạ lùng trong tình yêu của anh và bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

Đặng Thùy Trâm đã hy sinh, mang theo nỗi đau im lặng của tình yêu. Khương Thế Hưng còn sống trở về, nhưng tình yêu với người nữ bác sĩ trẻ mãi là một bí mật trong tâm hồn sâu kín của anh.

Trong cuốn nhật ký nổi tiếng của mình, Đặng Thuỳ Trâm dành cho người yêu những lời đầy tha thiết. Nhưng đâu đó, chị dường như cũng có những dự cảm không lành.

"Ngày 5/5/1968... Một cái gì giống như linh cảm bảo với Th. rằng rồi sẽ không được gặp M. nữa, lần chia tay ấy sẽ là lần cuối cùng. M. đứng nhìn theo, Th. đi không ngoảnh lại, mặc dù biết rằng một đôi mắt đen đang dõi theo Th. Những giây ở trong cánh tay người đồng chí thân yêu ấy chỉ còn là một hình ảnh dĩ vãng xa xưa mà thôi”.

Còn Khương Thế Hưng viết về người con gái anh yêu trong nhật ký: “Làm sao quên được Thùy Trâm nhỉ! Khi Thùy còn sống, mình tránh nói yêu Thùy. Nhưng mình rất thương và trọng Thùy. Và hẹn sẽ chờ. Để mãi mãi là người thân yêu nhất của nhau. Chiến tranh đã cướp đi lời hẹn ấy… Có phải tại mình không biết thủy chung? Thùy ơi, sẽ không có người con gái nào giống như Thùy đâu. Trong cuộc sống. Và trong trái tim mình. Nằm yên nghỉ nơi mảnh đất vùng giáp ranh Đức Phổ, Thùy có nghe lời nói im lặng nhưng rất vang xa của trái tim mình không? Anh yêu Thùy, vâng, anh yêu Thùy”.

 

Bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm sinh ra trong một gia đình trí thức Hà Nội. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp Đại học Y khoa, Đặng Thuỳ Trâm xung phong vào chiến trường. Chị công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) và hy sinh ngày 22/6/1970 trên đường đi công tác do bị địch phục kích. Đặng Thuỳ Trâm là tác giả của cuốn nhất ký nổi tiếng được một cựu sĩ quan quân báo Mỹ lưu giữ cho đến ngày trao trả lại cho gia đình vào năm 2005.  

Khương Thế Hưng sinh năm 1934, quê tại Hội An, Quảng Nam. Khương Thế Hưng tham gia chống Pháp rồi tập kết ra Bắc. Năm 1962, anh trở lại chiến trường. Năm 1965, anh là phái viên chiến trường cho các đơn vị chủ lực đặc công ở Quảng Ngãi. Khương Thế Hưng mất năm 1999 do di chứng chất độc da cam và những vết thương thời chiến tranh.

“Giặc Mỹ bắn vào đúng trái tim em. Em ngã xuống mà tim anh đau suốt bấy năm trường. Khi em còn sống, ta im lặng. Im lặng thực sự. Khi em chết rồi, ta mới nói thực sự yêu em”.

Những dòng nhật ký muộn màng đó được viết sau ngày Khương Thế Hưng biết tin bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã hi sinh. Đặng Thuỳ Trâm ngã xuống giữa chiến trường Đức Phổ với tình yêu day dứt không được đáp lại. Còn tình yêu và cái chết của chị dường như là tiếng dội đau đớn trong trái tim Khương Thế Hưng suốt phần đời còn lại sau chiến tranh.

“Em chết đi biến thành ngọn gió lượn trên đầu anh. Trên đời anh. Thành tiếng gọi đằng trước để anh đi tới...". (Nhật ký Khương Thế Hưng năm 1973).

Ngọc Hoa - Hà Hương/zing

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null