Cả một đời "phụng hiến"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Sáng 8-8, nhận được tin buồn ông Đỗ Hằng qua đời ở Đà Nẵng, tôi và những người thân quen, lớp con cháu làm báo ở Gia Lai thật sự bàng hoàng, xúc động. Vì điều kiện dịch bệnh ngăn cách, chúng tôi không thể ra Đà Nẵng để tiễn đưa ông ra đi lần cuối nên ngồi viết lại đôi dòng này như nén tâm nhang thành kính gửi đến hương linh người cán bộ tiền khởi nghĩa, người lãnh đạo kính mến của anh chị em làm báo ở Gia Lai từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chúng tôi thực sự gắn bó với ông Đỗ Hằng từ những ngày bắt đầu đi tìm tư liệu để viết lịch sử báo chí cách mạng tỉnh Gia Lai vào năm 2014. Bên cạnh các đồng chí lãnh đạo Báo Gia Lai, Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh thường xuyên liên lạc, tôi và nhà báo Quốc Ninh đã nhiều lần trực tiếp đến ngôi nhà số 10 Bàu Hạc (TP. Đà Nẵng), nơi ông đang sống với vợ chồng con gái để trao đổi, tìm kiếm tư liệu lịch sử liên quan đến báo chí địa phương. Chúng tôi luôn xem ông như một “pho sử cách mạng sống” ở Gia Lai.
Bấy giờ, ông vừa qua một cơn bạo bệnh, người còn rất yếu phải ngồi xe lăn, nhưng tinh thần vẫn còn rất minh mẫn, chưa có dấu hiệu gì ảnh hưởng đến trí nhớ. Hàng ngày, ông vẫn cần mẫn sưu tập tài liệu, đọc, viết, dường như đó là thú vui của tuổi già. Trên bàn của ông luôn có những tập bản thảo, đề cương lịch sử của các địa phương ở Gia Lai, cũng như các bài viết của cựu tù chính trị khắp nơi trên cả nước gửi đến nhờ xem, góp ý, sửa chữa… Người thân trong gia đình nhiều lần khuyên ông không nên gắng sức, lao tâm nhiều mà cần nghỉ ngơi, tịnh dưỡng cho bệnh tật không tái phát. Nhưng ông cũng giải thích cho người nhà yên tâm: Việc làm này là niềm vui những ngày cuối đời, nó không ảnh hưởng gì đến sức khỏe mà còn ngược lại giúp cho mình chống lại sự lão hóa bộ não. Mỗi lần hoàn thành một bản thảo cho đơn vị hay ai đó, nó như liều thuốc bổ khiến cho bản thân thấy vui khỏe hơn…
Ông Đỗ Hằng tại nhà riêng ở Đà Nẵng tháng 6-2020. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Ông Đỗ Hằng tại nhà riêng ở Đà Nẵng tháng 6-2020. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Hồi còn khỏe, mặc dù đã chuyển về Đà Nẵng nhưng ông đi lại Pleiku-Đà Nẵng như thoi đưa. Bên cạnh công việc có liên quan đến lịch sử địa phương, nơi đây cũng là quê hương thứ hai của ông, gắn bó một thời làm cách mạng trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Cụ thể, từ năm 1949, ông phụ trách Đảng vụ Ban cán sự Đảng Gia Lai, rồi làm Bí thư huyện An Khê (1951-1954)… Sau đó, ông là Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện 3 Gia Lai, rồi được phân công làm Bí thư Ban cán sự Đảng khu 9 (thị xã Pleiku) giai đoạn 1956-1957. Ông bị địch bắt tù đày 18 năm (1957-1975). Sau giải phóng, ông được phân công làm Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy rồi Giám đốc Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh Gia Lai-Kon Tum giai đoạn 1978-1980. 
Trong lời giới thiệu tập Hồi ký Đỗ Hằng, ông Ngô Thành-nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai-nhận xét: “Đồng chí Đỗ Hằng là một cán bộ có nhiều đóng góp cho phong trào cách mạng ở tỉnh Gia Lai, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Làm cách mạng là phải trải qua nhiều thử thách, trong đó thử thách lớn nhất là giữ vững tinh thần kiên trung, bất khuất, khí tiết cách mạng khi bị địch bắt, tra tấn tù đày. Đồng chí Đỗ Hằng đã làm tốt điều đó-qua 18 năm bị tù đày (1957-1975), lâu nhất là ngục tù Côn Đảo”.
Gần đây nhất, tôi và một số bạn làm báo đã nhận được món quà quý giá của ông Đỗ Hằng từ Đà Nẵng gửi lên, đó là cuốn sách dày gần 800 trang “Tù chính trị câu lưu Côn Đảo (1957-1975) từ thực tiễn nhìn lại” của nhiều tác giả được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2016, do ông làm Chủ biên và cuốn Hồi ký Đỗ Hằng “Những tháng năm phụng hiến”, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, năm 2020. Trong cuốn hồi ký, ông tâm sự: “Tôi nay đã 94 tuổi đời, 74 tuổi Đảng, danh hiệu “Cán bộ tiền khởi nghĩa”; có thời gian lăn lộn trên chiến trường Gia Lai hơn một cuộc kháng chiến. Năm 1957, tôi bị địch bắt tù đày qua 10 nhà lao, trong đó có 16 năm tù Côn Đảo. Đời hoạt động cách mạng của tôi đã trải qua bao thăng trầm, thử thách, với bao câu chuyện buồn-vui, bao kỷ niệm sâu sắc đáng nhớ, đáng kể, đáng ghi lại. Nhưng tôi “thời hậu tù” là những năm tháng tôi cùng đồng đội thân thiết lo làm công việc tri ân quá khứ, nhất là đồng đội đã hy sinh, có người còn vĩnh viễn nằm lại Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo, là đáng nhớ, đáng kể nhất”.
Thật đáng trân trọng và đáng quý một tấm lòng đầy nghĩa tình sâu sắc với quê hương và đồng đội! Xin vĩnh biệt ông Đỗ Hằng, một đảng viên kiên trung, một tấm lòng sắc son với cách mạng, với quê hương Gia Lai!
BÙI QUANG VINH

Có thể bạn quan tâm

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

(GLO)- Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có nhiều ca khúc không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của một vùng quê. Nơi ấy, tình yêu và nỗi nhớ không thể phai mờ. “Ngọn lửa cao nguyên” của nhạc sĩ Trần Tiến chính là một trong những ca khúc như thế.