Sống trên đỉnh núi-Kỳ cuối: Dân tộc tự do

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Khoảng ba thế kỷ trước, người Mông bị truy đuổi bởi người phương Bắc nên dạt về phương Nam là vùng núi phía Bắc Việt Nam. Thực tại sống trên núi cao, vì thế giống như định mệnh của dân tộc thiểu số này.


Tiếng nói của tự do

Trên một dốc đá lắt lẻo của bản Séo Lủng 2 thuộc xã Thái An, huyện Quản Bạ, chúng tôi đang tìm người hỏi đường, chợt một điệu khèn “hù, hú, hu...” vọng xuống từ một căn nhà gỗ trên triền núi cao.

 

Trên cao nguyên đá Đồng Văn, người Mông thích ngồi trên đỉnh núi thế này.
Trên cao nguyên đá Đồng Văn, người Mông thích ngồi trên đỉnh núi thế này.

Giữa trập trùng núi cao, điệu khèn đầy sự tự tình dân tộc ấy của người Mông đã dẫn dắt chúng tôi vượt dốc đến căn nhà gỗ của ông trên triền núi. Người thổi khèn là cụ ông Ma Khái Sò, 87 tuổi, một trí thức đồng thời là một nghệ nhân khèn Mông nổi tiếng.

Là người hiếm hoi vừa trình tấu và hiểu nội dung 360 bài khèn của người Mông, cụ Sò cho biết hầu hết những tri thức văn hóa và ký ức dân tộc Mông đều được lưu giữ trong các bài khèn. Nó phân thành bốn loại: sơ nhạc, tiểu nhạc, trung nhạc và đại nhạc, chủ yếu thể hiện toàn bộ đời sống tâm linh; chỉ có một phần nhỏ mang tính văn nghệ mà thôi.

Cụ chứng thực điều này bằng một bài khèn dài, âm hưởng thật khoan thai lững lờ như những màn sương giăng trên những chóp núi đá cao.

“Các cháu có nghe nó ngòng ngọng như giọng nói của người Mông hay không? Người ta bảo đó là tiếng của tự do, là mồ côi và khèn chính là linh hồn, là lịch sử, là văn hóa Mông!”.

Thông qua các bài khèn, cụ Sò diễn giải về lịch sử dân tộc mình. Mấy thế kỷ trước, người Mông bị người Hán truy đuổi đã chạy dạt tứ tán đến những quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.

“Người Mông lưu lạc khắp nơi, đến đâu cũng ở trên núi, hình thành tính chất lưu vong, tự do trong mình. Những người bản địa gọi là không có quê hương. Còn người Mông thì tự nhận thấy mình “con mồ côi” là vì thế!”.

 

Những cô gái Mông băng núi đi hội.
Những cô gái Mông băng núi đi hội.

Theo các nhà nghiên cứu, tiếng hát mồ côi nằm trong năm thể loại chính của dân ca Mông, song lại có số lượng lớn nhất.

“Cho dù nguồn gốc chưa được khẳng định là nơi đâu, song người Mông sinh sống ở Việt Nam phần lớn từ Trung Quốc di cư sang khoảng 300 năm trước, do giặc Hán truy đuổi. Điều này rõ nhất trong tín ngưỡng thờ tổ tiên hoặc làm ma cho người chết, dòng họ nào của người Mông cũng có bài cúng “Đuổi giặc Hán” cả!” - ông Sùng Đại Hùng (giám đốc Sở LĐ-TB&XH Hà Giang, một người Mông ở xã Má Lé, huyện Đồng Văn) nói về dân tộc mình.

Khi người đàn ông Mông chết, họ sẽ được mặc một bộ đồ phụ nữ để đi sang thế giới bên kia. Tập tục này xuất phát từ một huyền thoại của lịch sử: dù người Mông bị người Hán truy diệt đến tận cùng, nhưng vì phụ nữ Mông quá đẹp cho nên khi bắt được dân Mông, người Hán chỉ giết đàn ông nhưng chừa lại phụ nữ để chiếm hữu.

Muốn tồn tại qua cuộc truy diệt ấy, đàn ông Mông đã phải cải trang thành phụ nữ. Và ngay khi chết đi, họ cũng buộc phải cải trang!

“Người tự do”

Nhà nghiên cứu Corlett cho rằng: Mông có nghĩa là “người tự do”. Khái niệm này rất phù hợp với khí chất người Mông và không gian sinh sống tách biệt, trên đỉnh cao của họ, giữa trùng điệp đá núi và sương mù vây phủ...

Tác giả Nguyễn Mạnh Tiến, trong sách Những đỉnh núi du ca, nhận định: “Việc lựa chọn địa hình cư trú khắc nghiệt, sống trên những đỉnh núi là cái giá cho sự không phụ thuộc. Bởi nếu xuống vùng đất thấp, người Mông buộc phải chọn lựa thân phận bị trị bởi chủ nhân vùng Đông Bắc (là các Thổ Ty, Quằng Tày) và Tây Bắc (là Phìa, Tạo Thái).

 

Ông Ma Khái Sò.
Ông Ma Khái Sò.

Với một khí chất quật cường, vũ dũng và manh động, người Mông trong bức tranh địa lý - lịch sử Việt Nam là một kẻ đến muộn nhưng đã liên tục chiến tranh với các tộc người “bản địa” - chủ nhân của miền núi phía bắc Việt Nam là Tày và Thái.

Thất bại trong chiến tranh quân sự nhưng lại không chấp nhận thân phận bị trị, người Mông buộc phải co rút lên miền núi cao trên 800m - môi trường sống quen thuộc của họ hiện nay, nơi không có nước và đỉa.

Chọn lựa sống ở vùng núi cao Việt Nam là lựa chọn không mấy khó khăn đối với người Mông, bởi vùng núi cao Việt Nam vốn cùng một dải địa tầng với miền núi cao Vân Nam, nơi mà sự hiểm trở địa lý đã trở nên thành trì cố thủ nhiều đời của người Mông khi rút chạy khỏi sự truy bức của người Hán!”.

Trong khi đó, ông Sùng Đại Hùng, dựa trên ký ức lưu truyền của dân tộc mình, cho rằng sở dĩ người Mông chọn núi cao do luôn ám ảnh bởi sự truy đuổi của người Hán: “Vì sao người Mông ở đỉnh núi cao ư? Là vì giặc Hán truy đuổi, phải vào tận vùng sâu núi cao hiểm trở để trốn.

 

Lý giải việc người Mông sống trên đỉnh núi, TS Mai Thanh Sơn, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, cho rằng đó là một lựa chọn tất yếu của lịch sử vì khi họ di cư đến, những nơi thuận tiện cho canh tác và sinh hoạt đều đã có chủ.

“Những vùng núi thấp thì những nhóm Tày, Nùng, Thái... ở hết rồi. Lưng chừng núi đã có người Dao... Người Mông đến sau buộc phải chọn ở đỉnh núi cao. Và văn hóa của họ phải vận hành dựa trên điều kiện tự nhiên như thế!” - ông Sơn nhận định.

Các cụ của tôi thường khuyên con cháu là đừng có ở phố thị đông người mà nên đến ở nơi heo hút trên đỉnh núi cao. Các cụ vẫn còn ám ảnh bởi giặc Hán. Các cụ cho rằng khi đến được Việt Nam thì mười phần người Mông bị giặc Hán tàn sát hết chín...!”.

Những người nghiên cứu văn hóa Mông cho biết khi về đến vùng núi phía bắc Việt Nam, người Mông đã phải lấy đất của người Lô Lô - một tộc người vốn đến trước và sở hữu những đỉnh núi, để lấy đất sinh sống. Đó cũng là lý do trong các bài cúng của tất cả các dòng họ của người Mông, đều nhắc đến người Lô Lô với một sự tri ân nặng nghĩa ân tình...

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null