Nhớ những ngày hành quân vào chiến trường miền Nam

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong câu chuyện giữa những người tìm kiếm và các “nhân chứng” trong phim, có một số thông tin có lẽ chỉ những người trong cuộc mới hiểu đó là sự gian khổ, ác liệt, hy sinh của những người lính trẻ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước.

Chúng tôi đã hành quân bộ từ xã Thạch Quảng, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa vào chiến trường miền Đông Nam bộ với thời gian cả đi và dừng lại dọc đường hơn 6 tháng. Trong thời gian khoảng hơn 2 tháng hành quân trên đất miền Bắc, chúng tôi phải ngày nghỉ đêm đi để tránh máy bay địch. Do phải mang vác nặng quân trang, vũ khí, lương thực, thực phẩm trên vai nên cả vai và chân đều bị sưng phồng và bỏng rát. Những ngày đầu hành quân, chúng tôi đã phải đi cả đêm mới tới được trạm giao liên cho dù trạm nọ cách trạm kia chỉ khoảng 30 km.

 

Đoàn quân thần tốc vượt đèo Cả tiến về Sài Gòn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đoàn quân thần tốc vượt đèo Cả tiến về Sài Gòn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Hồi đó, người dân ở các trạm giao liên cũng cực khổ không kém gì bộ đội, họ vừa chia tay chúng tôi lúc chiều tối, lại lo đón các chú bộ đội khác đến nhà lúc ba bốn giờ sáng. Họ còn phụ giúp bộ đội chuẩn bị thức ăn, nước uống cho cả ngày và buổi tối hành quân hôm sau. Nhiều gia đình còn nấu sẵn nồi nước nóng để bộ đội đến nhà đã có nước nóng ngâm chân. Vào đến Trường Sơn, chúng tôi được chuyển sang hành quân ban ngày. Nhắc tới đường Trường Sơn, tôi lại nhớ tới những vần thơ trong bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nói hộ tâm tình những người lính chúng tôi:

Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác
Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi em có lấy măng không…


Chúng tôi đã hành quân qua nhiều núi cao, trong đó có dốc núi phải leo cả ngày mới qua được, phải hành quân qua dốc đá dựng đứng phải làm thang để qua như dốc Ba Thang, phải qua vùng núi khô hạn phải dùng vải xô để lọc nước ăn uống, phải qua những khu rừng khộp, ban ngày nắng nóng đến khô người nhưng ban đêm thì lạnh giá phải đào hầm, trải lá khô bên dưới mới ngủ được.

Các trạm giao liên trên đường Trường Sơn thường đặt ở vị trí xa sông suối để tránh pháo của kẻ thù nên việc chuẩn bị cho bữa ăn tối, vắt cơm bữa sáng và trưa ngày hôm sau cũng rất khó khăn. Do đường hành quân vô cùng gian khổ (khẩu phần ăn của mỗi người chỉ 600 gram gạo/ngày, còn thức ăn chủ yếu là rau rừng nấu muối, bột ngọt), nên số người bị bệnh sốt rét trong đơn vị ngày một nhiều, người khỏe phải mang vác thay cho người bệnh nên cung đường hành quân cảm thấy dài hơn. Ngoài ăn uống cực khổ và căn bệnh sốt rét rừng không chừa một ai, chúng tôi còn lo đối phó với biệt kích, thám báo và máy bay địch quần đảo ngày đêm trên đầu. Chỉ cần nghi vấn có sự sống của bộ đội ta dưới tán lá cây rừng là từng đàn máy bay của địch (phản lực, trực thăng) đã đến bắn phá điên cuồng, cày nát cả khu rừng…

Cho dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng những kỷ niệm về đường hành quân ra mặt trận vẫn không phai mờ trong tâm trí người lính chúng tôi. Đường hành quân vô cùng gian khổ, ác liệt, hy sinh, không loại giấy mực nào có thể lột tả hết được, nhưng chúng tôi đã vượt qua được chính mình, đã vào được chiến trường nơi quân đội cần tới và rồi là cùng vỡ òa niềm vui, sự tự hào khi còn sống để chứng kiến được đất nước ngày thống nhất.

Theo sggp

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null