Lớp học nơi lưng chừng trời

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Ai đi huyện cuối đường Trạm Tấu (Yên Bái), cách thị trấn 5 km nhìn sang tay phải thấy một con đường mòn dốc ngược toàn vết chân trâu. Đó là đường lên bản Tà Lù Đằng (xã Xà Hồ, Trạm Tấu) chon von lưng núi Pú Luông của dãy Hoàng Liên Sơn, ít người biết.

“Đường dành cho thầy cô giáo và con trâu, con bò”

Đỗ Văn Khanh, Phó trưởng phòng GD-ĐT huyện Trạm Tấu, người cao gầy nhưng phăm phăm cày nát các điểm trường trong huyện, bảo: Toàn huyện có hơn chục điểm tạm bợ tranh tre nứa lá, trong đó Tà Lù Đằng đứng đầu về mức độ khó khăn. Bản nằm xa đỉnh Tà Chì Nhù cao 2.900 mét được dân phượt gọi là “đỉnh cao thứ 7 Việt Nam”. Người Kinh vào bản duy nhất là giáo viên.

 

Học sinh mầm non Tà Lù Đằng giờ tan học.
Học sinh mầm non Tà Lù Đằng giờ tan học.

“Đường này chỉ dành cho thầy cô giáo và con trâu, con bò”, ông Mùa A Dế, Chủ tịch UBND xã Xà Hồ, vừa hùng hục đẩy chiếc xe Win ngược dốc 15 độ vừa toang toác cười: “Năm rồi có dự án làm đường giao thông nông thôn nên mới xin được tiền bổ núi, phát cây làm đường. Trước đấy, con ngựa thồ ngô từ bản xuống đường, lên cũng đi lạc”.

Trước khi lên Tà Lù Đằng, cô giáo Trần Thị Thoa, Hiệu trưởng Trường mầm non Hoa Hồng của xã Xà Hồ, gọi điện bảo: “Trời nắng, có thể đi xe máy trong 40 phút. Còn mưa, phải đi bộ 3 tiếng”. Hôm lên, may có nắng nên thầy giáo tiểu học Nguyễn Văn Hồng, thâm niên 18 năm dạy học vùng cao, mới dám lấy xe máy chở tôi trên con đường vòng sườn núi, lách trên miệng vực, ào qua lòng suối, nhảy tưng tưng vì đá hộc.

Bản Tà Lù Đằng nằm cách đường tỉnh lộ 7 km, ở tít trên cao. 50 hộ dân với 318 nhân khẩu người Mông sống nhờ vào những nương ngô còi cọc, phần sống thì ít, phần chết nhiều vì sương muối. Năm nay ngô được giá, những... 29.000 đồng/yến (10 kg). Giá ấy là phải mang xuống đường giao tận thùng xe cho thương lái, chứ có cho không cũng chẳng ai lên lấy. Sùng A Khay, 30 tuổi, là trưởng bản, nói: “Bản này 100% hộ nghèo. Ai giàu nhất mới có xe máy, nhưng giàu thì cũng chỉ ăn cơm với ngô”. Đến bản, tôi hỏi chuyện điện đóm, ai cũng ngơ ngác. Chủ tịch xã Mùa A Dế buồn buồn: “Điện có rồi, ở dưới đường ấy”, và giải thích: “Không đưa trạm hạ thế lên được vì xa quá. Kéo dây lên thì phải nhiều cột và quá hao”.

Lớp mầm non giữa bản heo hút

Điểm trường mầm non Tà Lù Đằng nằm giữa bản. Căn nhà thấp xiêu vẹo, vách gỗ đen đúa cách nhau cả nắm tay, mái fibro xi măng thủng lỗ chỗ chiếu xuống nền đất vô số đốm nắng. Gian rộng nhất làm lớp học với mấy bộ bàn ghế mùn xỉn. Gian bé hơn kê mấy tấm gỗ trên ghế và gọi là chỗ ở cho giáo viên cắm bản.

Những căn nhà lưng chừng núi của người Mông, dù có xây dựng kiên cố thế nào, chỉ vài mùa mưa nắng là xám xịt, ọp ẹp. Lớp học này lại ọp ẹp hơn.

Lý do cũng chỉ vì năm trước, không biết người ta cải tiến kiểu gì mà lùa hết học sinh mầm non về điểm chính để học. Mà ở cái bản heo hút này, nhà gần điểm trường nhưng mưa lạnh đường trơn, mùa thu hoạch bận bịu, dịp lễ tết la đà rượu chè… là người dân cho con cháu nghỉ học khiến các cô giáo rạc cẳng đến nhà vận động.

Còn bây giờ phải đưa con từ bản xuống đường 7 km, rồi đi tiếp 5 km đến điểm chính, mỗi ngày 2 buổi đưa đón là mất toi công việc của một người lớn trong nhà. Thế là học sinh đua nhau nghỉ học, em nào chăm nhất cũng chỉ đến lớp 3 - 4 lần/tuần. Giáo viên lo lắng, ban giám hiệu ăn không ngon ngủ không yên, lãnh đạo phòng đành xin năm học 2017 - 2018 dạy lại mầm non ở các điểm bản.

Riêng Tà Lù Đằng cử lên 2 cô giáo có kinh nghiệm là Lương Thị Dom (27 tuổi, nhà ở TT.Trạm Tấu) và Đoàn Thị Xuyên, ai cũng biết tên.

Người gieo chữ cùng cực

 

Cô giáo Đoàn Thị Xuyên chăm sóc học sinh mầm non.
Cô giáo Đoàn Thị Xuyên chăm sóc học sinh mầm non.

Cô giáo Đoàn Thị Xuyên, 31 tuổi, quê Sơn La, sau đó sang Phú Thọ ở với bố mẹ nuôi học trung cấp mầm non trong Trường đại học Hùng Vương. Năm 2009 ra trường nhưng không xin được chỗ dạy, cô về làm tạp vụ tại Ban Quản lý vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ), đến 2012 mới chính thức xin được chỗ dạy mầm non ở xã Xà Hồ (Trạm Tấu, Yên Bái). Cô được điều lên dạy trên điểm trường Háng Xê và trong năm 2013 lấy chồng làm thợ mộc ở H.Văn Chấn, sinh con trai đầu tên Đồng Duy Hiếu, tới năm ngoái sinh tiếp bé trai tên Đồng Duy Tuấn.

Nói chuyện hoàn cảnh, giờ Xuyên có lẽ đứng đầu trong số các giáo viên trong xã. Năm 2013 khi đang dạy ở Háng Xê, Xuyên sinh con và sau thời gian nghỉ lại ôm con lên dạy học. Mẹ chồng là bà Hà Thị Chiếng (khi đó 72 tuổi) phải rời nhà ở thôn Đồng Ban (xã Xuân Thịnh, H.Văn Chấn, Yên Bái) lên trông cháu cho con dạy học. Hết 1 năm, Xuyên được chuyển về điểm chính bán trú Tà Ghênh, năm học sau (2016 - 2017) lại lên điểm trường trên bản Suối Giao, bà Chiếng vẫn kiên nhẫn đi theo trông cháu, chấp nhận cuộc sống ăn ở tạm bợ tập thể, thiếu từng chỗ tắm, chiếc chiếu nằm. Tháng 9.2016, khi cô Xuyên sinh cu Tuấn, vẫn một tay bà Chiếng chăm con dâu mới sinh và cháu trai, riêng cu Hiếu thì mẹ cho theo lên lớp học cùng mẹ, vừa học vừa khóc tỉ ti.

“Nhiều khi em cảm giác như bị giời đầy. Khổ đến cùng cực”, Xuyên nói với tôi trong quãng đường xuống núi buổi chiều. Thấy tôi thở dài, cô quay lại an ủi: “Tại anh mới nghe cứ tưởng vậy thôi, chứ tụi em công tác lâu, quen rồi!”. Ít ai biết, bước vào năm học mới 2017 - 2018, ngay từ giữa tháng 8 khi được giao giảng dạy tại điểm trường Tà Lù Đằng, cô giáo Xuyên lại dắt mẹ chồng 76 tuổi ôm cu Tuấn (chưa đầy 1 tuổi) cùng chăn chiếu, quần áo, nồi niêu… ngược núi Pú Luông. Lên điểm trường, thấy bỏ hoang cả năm, không điện nước, phòng ở, cô lại đưa cả nhà xuống đường, xin ở nhờ nhà Trưởng thôn Mùa A Khay.

Năm trước, cứ cuối tuần là anh Đồng Văn Hưởng, chồng Xuyên lại chạy xe máy từ xã Xuân Thịnh (H.Văn Chấn, Yên Bái) trên quãng đường núi 40 km để lên thăm mẹ, vợ và 2 con trai. Năm nay cu Hiếu đã lớn, phải về ở với bố. Cuối tuần, hai bố con lại lóc cóc xe máy lên Tà Lù Đằng ở lưng chừng trời, sum họp gia đình trong 2 ngày 1 đêm, rồi lại lọc cọc về, đợi tuần sau sum họp.

Khi tôi viết những dòng này, gọi điện cho Xuyên hỏi chuyện. Cô kể trong tiếng mưa rừng ào ạt: “Dạo này mưa suốt, lớp dột khắp nơi. Em dậy từ 4 giờ sáng cho con bú, đi bộ 7 km lên điểm trường vừa kịp đón trẻ. 16 giờ chiều về, 18 giờ tối đến nhà, kịp cho cu Tuấn bú mẹ. Cuối tháng phải dọn lên bản, ăn ở tạm bợ cũng cố chịu. Mỗi ngày đi bộ 5 - 6 tiếng đồng hồ, mệt lắm anh ơi!”. Tôi bảo: “Mưa vầy, xuống núi sớm đi kẻo lũ quét ngang đường mòn”. Lại nghe tiếng cười phía bên kia: “Đợi phụ huynh đến đón hết mới về. Bọn trẻ bé như con mình, thả về không yên tâm. Tụi em dùng đèn điện thoại soi đường, cũng được. Xuống núi có 2 tiếng thôi”.

Mai Thanh Hải/thanhnien

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.