Làng biển trong 'bão' giá xăng dầu - Kỳ 3: Vắng lặng cửa Gianh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Chiều đang dần buông trên cửa Gianh, nơi được xem là nhộn nhịp nhất của tỉnh Quảng Bình về nghề cá và dịch vụ hậu cần nghề cá, nhưng không hề thấy bóng dáng một chiếc tàu cá nào vào ra. Trên bờ, những người đàn ông ngồi bất động nhìn ra phía biển. Họ nói, ra đây hóng gió để vơi đi nổi nhớ mùi tanh nồng vị biển.
Nguy cơ đói kém, mất nhà
Đang mùa đánh bắt nhưng hai bên bờ cửa Gianh kín đặc tàu thuyền, những ngư dân ở đây nói tình trạng này bắt đầu diễn ra từ sau Tết Nguyên đán và kéo dài cho đến nay. Thi thoảng vẫn có vài chiếc tàu cá đánh bắt xa bờ nhổ neo ra khơi để “bấm dầu” (diện hỗ trợ chi phí nhiên liệu của Chính phủ dành cho những tàu đánh bắt xa bờ một năm một lần). Số còn lại không thuộc diện “bấm dầu”, hoặc đã “bấm dầu” thì nằm bờ chờ giá dầu hạ nhiệt.
Hai chủ tàu là anh Phượng và anh Lưu ngồi ngóng biển
Hai chủ tàu là anh Phượng và anh Lưu ngồi ngóng biển
Gặp hai người đàn ông ngồi trên bờ kè biển phường Quảng Phúc, thị xã Ba Đồn nhìn ra phía biển. Buồn rầu, chán chường hiện rõ trên khuôn mặt của hai ngư dân dạn dày sương gió. Anh Nguyễn Văn Phượng, chủ tàu cá đánh bắt xa bờ có công suất 822 mã lực tâm sự: Trước đây tàu anh làm nghề vây rút, thấy giá dầu tăng, để giảm chi phí anh chuyển sang nghề chụp. Chuyến mở biển đầu năm anh lỗ 18 triệu đồng, chuyến tiếp theo lỗ 150 triệu đồng. Không còn vốn lưu động, anh đành cho tàu nằm bờ từ đó đến nay. “Gia đình tôi 5 người sống chủ yếu nhờ vào chiếc tàu này. Nay tàu không ra khơi được, mất hẳn nguồn thu nhập, lãi ngân hàng thì tháng nào cũng trả. Mấy tháng nay gia đình tôi đã phải đi vay tiền để trang trải cuộc sống và trả lãi ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài thì nguy cơ đói kém, mất nhà là hiện hữu” - anh Phượng nói.
Đại úy Phan Văn Hoàng, Trạm trưởng Trạm kiểm soát biên phòng Cửa Gianh cho biết: Trạm này kiểm soát 1.345 tàu cá, trong đó có 387 tàu đánh bắt xa bờ của ngư dân hai bên bờ sông Gianh, chưa tính tàu cá ngoại tỉnh cũng thường xuyên vào ra cửa Gianh để trao đổi hàng hoá. Trước đây, bình quân mỗi tháng có hơn 500 tàu cá xuất, nhập cửa Gianh nhưng nay thì rất ít, chưa đến 1/3, mà đa số là thuyền đánh bắt vùng lộng. “Đánh vùng lộng chi phí xăng dầu ít nhưng nhiều thuyền đi về cũng lỗ. Ngư dân tâm tư lắm, họ nói nếu kéo dài chắc không trụ nổi” – Đại úy Hoàng chia sẻ.
Bi đát hơn anh Phượng, anh Lê Hồng Lưu cũng đang sở hữu chiếc tàu đánh bắt xa bờ 822 mã lực, nhưng phải nằm bờ từ tháng 8 năm ngoái đến nay. Để làm chủ chiếc tàu này anh vay ngân hàng 7 tỷ đồng và vay mượn họ hàng, làng xóm 3 tỷ nữa để làm vốn đối ứng. Làm nghề vây rút, mỗi chuyến đi chi phí khoảng 500 triệu đồng, trong đó tiền nhiên liệu mất 220 triệu đồng. “Tôi đóng tàu này năm 2016 và được xem là làm ăn may mắn. Nhờ tích góp tôi đã trả được nợ vay ngoài và 3 tỷ tiền gốc của ngân hàng. Nếu không có gì thay đổi thì chỉ vài năm nữa tôi sẽ trả hết nợ, cuộc sống sẽ khấm khá lên. Nhưng không ngờ, giá xăng dầu tăng quá cao, nếu tàu xuất bến thì cầm chắc phần lỗ nên đành nằm bờ. Không có thu nhập nhưng tháng nào gia đình tôi cũng phải trả lãi ngân hàng 30 triệu đồng không thiếu một xu. Nếu tình trạng này kéo dài mà Nhà nước không có chính sách hỗ trợ ngư dân như khoanh nợ, giãn nợ thì gia đình tôi chỉ còn nước ra đứng đường” - anh Lưu chia sẻ.
Không chỉ hai ngư dân nói trên, mà hầu hết những ngư dân lâu nay bám biển, sống dọc hai bên bờ sông Gianh cũng đang xao xác, người thì bán tàu, kẻ rời làng làm thuê làm mướn vì “bão” giá xăng dầu. Anh Hoàng Văn Hoà, xã Quảng Minh cũng vay hơn 10 tỷ đóng tàu đánh bắt xa bờ, làm ăn thất bát, để lại tàu cho người anh trai trông coi, còn mình thì tìm đường xuất khẩu lao động.

Phó Giám đốc Nguyễn Tô My ngồi thẫn thờ trên cầu cảng cung cấp đá lạnh của mình
Phó Giám đốc Nguyễn Tô My ngồi thẫn thờ trên cầu cảng cung cấp đá lạnh của mình
Nhiều cơ sở dịch vụ nghề cá đóng cửa
Hai bên bờ cửa Gianh có hàng chục công ty chuyên phục vụ hậu cần nghề cá, từ đá lạnh, xăng dầu, ngư cụ, kho lạnh chứa hải sản. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, sản lượng cứ tụt dần, nên nhiều cơ sở phải đóng cửa để cắt lỗ.
Anh Nguyễn Tô My, Phó Giám đốc Công ty Đá lạnh Hà Mến to nhất nhì phường Quảng Phúc cho biết: Ngày trước cơ sở đá lạnh của anh bình quân mỗi tháng bán ra trên 15.000 cây đá lạnh để phục vụ các tàu đánh bắt xa bờ, nhưng nay chỉ còn dưới 2.000 cây. Doanh thu sụt giảm từ 200 triệu đồng/tháng, nay chỉ còn chưa đến 30 triệu đồng, không đủ trả tiền điện và lương công nhân.
Ngoài ra công ty anh My còn có một kho lạnh bảo quản hải sản chuyên cung cấp cho thị trường Trung Quốc. “Không chỉ ảnh hưởng vì giá xăng dầu, mà những công ty làm ăn với Trung Quốc như bọn em còn thất bát kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát. Phía Trung Quốc đóng cửa biên giới, giá cá hố sụt giảm từ 150.000 đồng một kilogam, xuống còn 60.000 đồng. Phía Trung Quốc cửa khẩu khi mở, khi đóng bất thường, khiến nhiều chuyến xe của công ty em phải vứt cá tại cửa khẩu để quay về. Để duy trì kho lạnh, một ngày mất 9 triệu tiền điện, chịu không nổi, em cho đóng cửa luôn để cắt lỗ” - anh Tô My tâm sự.
Đối diện phường Quảng Phúc, phía bên kia sông là xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, nơi có âu thuyền Thanh Khê và tập trung dày đặc các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá cũng bi đát không kém. Hầu hết các cơ sở đều đóng cửa im lìm, kho bãi trống trơn không một bóng người. Gọi cửa một cơ sở có vẻ lớn nhất ở đây, một người đàn ông gương mặt khắc khổ đi từ trong ra.
Người đàn ông này giới thiệu mình tên Hoàng Huân, quê ở xã Hải Phú, huyện Bố Trạch ra đây mở kho lạnh này. Kho lạnh của ông có công suất chứa 100 tấn hàng/ngày và hơn 100 công nhân phục vụ thường xuyên. Bình thường, cơ sở của ông thu mua các loại cá, mực… sơ chế rồi cấp đông để đưa đi các tỉnh hoặc xuất khẩu. Kể từ khi giá xăng dầu tăng cao, tàu cá không ra khơi đánh bắt, thu mua không có, ông đành cho công nhân nghỉ và đóng cửa kho lạnh. “Ngày trước ở đây nhộn nhịp lắm, tàu bè và thương lái khắp nơi đổ về để mua bán. Hơn 100 công nhân của tôi thu nhập bình quân mỗi tháng hơn 8 triệu đồng. Nay thì chú thấy đó, chẳng một bóng người. Tôi từ ông chủ trở thành bảo vệ để đỡ chi phí” - ông Huân chia sẻ.
Theo ông Huân, giá xăng dầu tăng cao ảnh hưởng hầu hết đến các mặt đời sống xã hội, nhưng có lẽ bi đát nhất vẫn là ngư dân và những người làm dịch vụ nghề cá. “Những ngành nghề khác chỉ chịu ảnh hưởng về giá, còn ngành đánh bắt thuỷ sản và dịch vụ nghề cá thì gần như đóng băng không thể cựa quậy khi giá xăng dầu tăng cao” - ông Huân nói.
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nam (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Đi biển mùa xuân

Đi biển mùa xuân

Làng biển rộn ràng trong ngày hội Nghinh Ông. Lễ hội đã trở thành Tết biển, một nét đẹp văn hóa của người dân nơi đầu sóng ngọn gió Cần Giờ. Sau 3 ngày chơi lễ, những con tàu đánh cá lại vươn mình ra khơi, bám biển ngày đêm, đi suốt mùa xuân... 

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.