Hồi ức "hạt giống đỏ" trên đất Bắc-Kỳ 3: Lớp học ở vùng sơ tán

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Năm học 1963-1964, tôi được lên lớp 2C do thầy Triêm-người Pa Hy chủ nhiệm. Tháng 9-1964, hệ cấp I của trường đi sơ tán tại Chi Nê, đóng ngay phía trước cổng chính của Trường Đào tạo Cán bộ Dân tộc miền Nam.
Từ Hà Nội về Chi Nê bấy giờ nếu theo đường bộ là 92 km. “Cuộc hành quân” của trường về Chi Nê chia làm 2 chặng đường: chặng thứ nhất đi tàu hỏa từ Hà Nội về ga Phủ Lý-Hà Nam vào tối; chặng thứ 2 từ ga Phủ Lý về Chi Nê (27 km). Từ Phủ Lý về Chi Nê chia làm 2 nhóm, nhóm con trai các lớp 3 và 4 đi bộ, còn lại đi ô tô.
Năm học này tôi có thêm những bạn mới như Đinh Lói (SN 1953), Đinh Lê (SN 1955, cùng là dân tộc Hrê), Đinh Cường (dân tộc Kor), A Gun (dân tộc Ktu), A Lua (dân tộc Vân Kiều)... Từ cuối năm học, trường thường nhuộm đen quần áo để dễ ẩn nấp khi máy bay Mỹ đến. Tôi vẫn ở trường là chính, chỉ thứ năm và chiều thứ bảy, chủ nhật về nhà má Chín. Khi ấy, nơi ngồi học là một chiếc lán dựng trong một cái hang rất lớn nằm sâu trong núi. Ban ngày từ 6 giờ, chúng tôi vào ở trong núi học, đến 17 giờ thì về trường ngủ. Tại lán học trong núi và nhà ở tại trường, chúng tôi đều phải đào hầm sâu khoảng 1,5-2 m, rộng khoảng 0,75 m từ trong nhà ra ngoài để phòng khi máy bay Mỹ đến, có thể nhanh chóng xuống hầm ra khỏi nhà ngay. Nhớ lại trừ nhà ở ra, còn lại học sinh chúng tôi phải làm tất dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của các thầy, cô. Chúng tôi bắt đầu biết làm phân xanh, trồng, chăm sóc cây rau, trồng khoai, ngô, sắn, chặt củi... để cải thiện bữa ăn là bắt đầu từ lớp 2 này. Nhớ lại mà xúc động lắm, cảm ơn các thầy cô giáo đã không chỉ dạy chữ mà còn rèn luyện chúng tôi từng bước một nên người từ thời thơ ấu như vậy.
Một số bạn đội thiếu niên hệ cấp II chụp ảnh với thầy Nguyễn Trọng Bí Hệ trưởng ở Bản Đồng Liều, xã Chi Lăng cuối năm 1966. Ảnh: Ksor Phước
Một số bạn đội thiếu niên hệ cấp II chụp ảnh với thầy Nguyễn Trọng Bí Hệ trưởng ở Bản Đồng Liều, xã Chi Lăng cuối năm 1966. Ảnh: Ksor Phước
Khi sống tập thể vẫn có cô bảo mẫu lo cho việc giặt giũ quần áo, chăn, màn... chung cho những đứa nhỏ. Cho đến khi đi sơ tán lên Chi Nê (tỉnh Hòa Bình) thì không còn chế độ bảo mẫu nữa. Cũng như bao bạn cùng học khác, tôi phải tự xử lý những vấn đề rất nhỏ, bình thường trong cuộc sống. Ví dụ quần áo bẩn ai giặt cho? Khi quần áo ướt thì làm phải gì?... Chúng tôi cứ nhìn các anh lớn mà làm theo. 
Năm lớp 3, sáng dậy, sau khi tập thể dục, chúng tôi xuống ruộng lúa bên nhà, lấy hai tay xấp xấp nhẹ vào lá lúa có đầy sương rồi ấp nhẹ lên mặt... Thế là xong việc rửa mặt đầu ngày. Mãi đến năm học lớp 4, tôi mới biết sử dụng xà phòng để giặt quần áo. Mai này, khi sang Quế Lâm (Trung Quốc), tôi mới biết đánh răng và dùng khăn để tắm, rửa. Thật khó tin nhưng đó là một trang đời rất thật, lung linh thường ngày của tôi và nhiều bạn thời ấy.
Ở Chi Nê, chúng tôi thường vào các làng của đồng bào Mường. Quan hệ giữa Trường Đào tạo Cán bộ Dân tộc miền Nam, Trường Dân tộc Trung ương với đồng bào các dân tộc ở Chi Nê rất chan hòa, đầm ấm, gần như không có xung khắc nào. Nhờ đó tôi đã sớm biết vài nét về đồng bào Mường, họ cũng sống trong nhà sàn, canh tác ruộng nước nhưng cũng làm nương rẫy như người Tây Nguyên, cũng có rượu ghè...
Khoảng tháng 6-1965, trường trở về lại Trường Dân tộc Trung ương ở Thanh Xuân, Hà Nội. Sau khoảng một tuần, vào một buổi chiều, lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh máy bay Mỹ bay quần đảo trên bầu trời Hà Nội. Đến tháng 8-1965 trường lại từ Hà Nội chuyển lên Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn) sơ tán trong vòng một tháng tại Bản Trang (xã Chi Lăng, huyện Tràng Định). Lần này ở đây trường có đủ 3 hệ cấp I, cấp II và cấp III. Sau 1 tháng hệ cấp III đóng tại Bản Trang cùng Ban Giám Hiệu; hệ cấp II vào sâu tận bản Đồng Liều; còn hệ cấp I vào bản Nà Phuộc. Thầy Tuy làm Trưởng hệ cấp I, thầy Thê Trưởng hệ cấp III, thầy Bí Trưởng hệ cấp II. 
Các cựu học sinh trường Dân tộc Miền Nam chụp ảnh lưu niệm trước Bia di tích trường tại Bản Trang, xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn 2019. Ảnh: Ksor Phước
Các cựu học sinh Trường Cán bộ Dân tộc miền Nam chụp ảnh lưu niệm trước Bia di tích trường tại bản Trang, xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn 2019. Ảnh: Ksor Phước
Mấy tháng đầu, học sinh và các thầy, cô giáo thực hiện “2 cùng” với dân: cùng ăn, cùng ở; còn thời gian trong ngày là lên rừng chặt, vác tre, nứa về làm nhà và trồng rau, trồng mì, ngô... để cải thiện bữa ăn. Sau này về ở tập trung theo lớp, nhà ở cũng chính là lớp học, phải đào hào. Ngoài ra, nhà nào cũng có một căn phòng nhỏ dành cho giáo viên chủ nhiệm ở. Thời đó rừng ở Tràng Định còn rậm lắm. Đồng bào dân tộc Tày, Nùng cũng ở nhà sàn, canh tác ruộng nước và làm nương rẫy như đồng bào dân tộc Mường ở Lạc Thủy. Nhà sàn, trên thì người ở, dưới chất củi và chuồng trâu, bò. Các món ăn của đồng bào Tày, Nùng rất phong phú, ngon và nhiều màu sắc…
Sau khi ổn định chỗ ở và lớp học, buổi sáng thầy dạy, buổi chiều học ôn, rồi chơi thể thao (chủ yếu bóng đá và bóng chuyền), sau đó tưới rau; buổi tối năm đầu dùng đèn dầu, sang năm sau có máy phát điện 5kw/h cho mỗi nhà 2 bóng gọi là, nhưng chỉ đến 21 giờ là tắt.
Thời đó khó khăn lắm, hầu hết chúng tôi phải ăn độn sắn hoặc ngô. Thịt, cá lâu lâu mới có (chủ yếu do trường tổ chức chăn nuôi lợn, bò là chính), mâm nào (4 người/mâm) có người cài bẫy được thú rừng hoặc bắt được cá thì ăn uống thoải mái hơn.
Năm học này tôi có thêm nhiều bạn học mới thường hay chơi và song hành cùng nhau, có người đến hết lớp 10. Cỡ cùng lứa (hơn kém nhau từ 2-5 tuổi nhưng đều xưng hô mày tao) như: A Gun, A Lua, Sói, Đinh Cường, Đinh Lói, Đinh Lê, Khê, Bắc, Y Tinh, Đinh Vin…
Như phần trên tôi có nói, thời đi sơ tán rất nhiều khó khăn. Cũng như bao anh, chị lớn tuổi, chúng tôi đều phải tích cực tham gia cùng mọi người lên rừng chặt cây, tre, nứa làm nhà, lớp học, chặt củi, trồng rau, nuôi gà, heo... để cải thiện bữa ăn. Thời bấy giờ đồng bào Tày, Nùng ở xã Chi Lăng không bao giờ ăn thịt trâu. Có lần trâu bị sét đánh chết họ cũng đem đi chôn. Lần sau con trâu nào bị sét đánh chết, anh, em học sinh trong trường đến xin người dân, họ cho đem về xẻ thịt nấu chia nhau ăn...
...Do Đế quốc Mỹ tiếp tục mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, từ tháng 8-1972, Trường Học sinh miền Nam số 3 (lúc này đã đổi tên-P.V) phải tổ chức các lớp đi sơ tán riêng lẻ cách trường khoảng hơn 1 km, sâu vào các vùng còn rừng. Ở nơi mới, chúng tôi cũng phải tự làm tất cả, nhà ở kiêm lớp học, đào giao thông hào từ trong nhà ra, các lớp ở cách nhau vài trăm mét. Cuộc sơ tán lần này là lần cuối cùng, sau 12 ngày đêm “Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không” mới kết thúc.
KSOR PHƯỚC

Có thể bạn quan tâm

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null