Giữa mùa mưa kể chuyện… đảo 'khát'

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Do cấu tạo địa chất đặc biệt nên đảo Bé không tích tụ được mạch nước ngầm, người dân trên đảo phải dùng lu, bể... để hứng nước mưa dùng vào sinh hoạt. Hàng trăm năm qua, cộng đồng nhỏ bé hơn 500 người ấy tồn tại giữa biển khơi như một cuộc thi gan cùng tạo hóa.
Du khách thích thú bơi lặn giữa làn nước biển trong xanh ở đảo Bé. Ảnh: N.N

Du khách thích thú bơi lặn giữa làn nước biển trong xanh ở đảo Bé. Ảnh: N.N

An Bình nhưng không bình an

Nằm cách đảo Lớn (huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) chừng 3 hải lý (gần 6km) về phía tây bắc, đảo Bé (hay còn gọi là đảo An Bình) có diện tích chừng 0,69km2, dân số khoảng 100 hộ với 500 nhân khẩu sinh sống. Người dân đảo Bé sống chủ yếu bằng nghề trồng hành, tỏi, đánh bắt hải sản.

Năm 2004, đảo Bé được tách ra thành một xã riêng. Thấm thía với sự khắc nghiệt của thiên nhiên suốt mấy trăm năm qua nên người dân đảo Bé đồng lòng đặt tên xã là “An Bình”, với mong ước được bình an. Tuy nhiên, sự khắc nghiệt vẫn còn đó.

Do cấu tạo địa chất đặc biệt nên đảo Bé không tích tụ được mạch nước ngầm, nên người dân trên đảo chỉ biết sống nhờ vào nước trời. Tất cả các mái nhà trên đảo đều biến thành nơi hứng nước mưa dẫn vào các lu, bể... Vào những năm đại hạn, cư dân đảo Bé phải sang đảo Lớn mua từng can nước về dùng.

Đến đảo Bé, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt mọi người là những chiếc lu khổng lồ. Nhà nhà đều có chiếc lu trước nhà để dự trữ nước mưa, hoặc nước ngọt được mua từ đảo Lớn về. Cộng đồng nhỏ bé ấy tồn tại trên hòn đảo nhỏ như một cuộc thi gan với tạo hóa.

Theo các bậc cao niên trên đảo Bé, thì từ gần 200 năm trước, có 4 người ở đảo Lớn qua đây khai khẩn đất hoang, giờ thành 4 tộc họ lớn trên đảo. Người dân đảo Bé đã lập một miếu để thờ 4 vị tiền hiền này.

Để “giải khát” cho cư dân đảo Bé, chính quyền huyện Lý Sơn và cả tỉnh Quảng Ngãi đã nhiều lần thuê các đoàn địa chất ra khoan thăm dò, tìm nguồn nước ngọt cho đảo nhưng đều bất thành. Một số nhà địa chất nói thẳng là giờ có xăm nát đảo Bé thì cũng không tìm ra nước ngọt!

Người dân truyền tai nhau lời của các nhà thăm dò địa chất. Đó là đảo Bé thời khai thiên lập địa đã bị vỡ và tách rời ra khỏi đảo Lớn. Chính đảo Bé được “vỡ ra” từ đảo Lớn nên trong lòng của nó bị rỗng, bao nhiêu nước mưa đổ xuống đều trôi tuột ra biển, không đọng lại giọt nào!

Những chiếc lu đựng nước trên đảo Bé. Ảnh: N.N

Những chiếc lu đựng nước trên đảo Bé. Ảnh: N.N

Những giọt nước cuối cùng

Trước tình hình đó, năm 2008 chính quyền đã phải bỏ ra hàng trăm triệu đồng để xây một bể chứa nước có thể chứa hàng trăm khối, nhưng người dân vẫn “khát”.

Theo lời một cư dân trên đảo là ông Nguyễn Đại 52 tuổi, năm 2010 là năm đại hạn của đảo, suốt nhiều tháng không có một giọt mưa, tất cả các lu, bể chứa nước ngọt trên đảo đều cạn kiệt, chính quyền xã An Bình (tức đảo Bé) buộc phải xuất “kho nước dự trữ” cấp cho mỗi nhà 1,5 m3. Dù dùng hết sức tiết kiệm, song chỉ trong vòng 3 ngày, cơn khát trở lại như cũ. Huyện Lý Sơn khi đó phải xuất hàng chục triệu đồng tiền quỹ phòng chống thiên tai để mua nước ngọt “cấp cứu” đảo Bé.

Trước khi nhận số nước “cấp cứu”, người dân đảo Bé cũng đã mót vét những giọt nước cuối cùng trong từng bể chứa. Chưa thấy ở đâu mà nước ngọt trở thành một thứ xa xỉ như ở đảo Bé này. Đã từng trải qua nhiều mùa hạn hán, song ông Đại vẫn không thể hiểu vì sao, năm đó thời tiết lại khắc nghiệt đến vậy.

“Hồi đó, nhiều người quan niệm rằng, thước đo của sự giàu nghèo trên đảo, chính là quy mô từng bể nước của mỗi gia đình. Nhà giàu thì mới xây bể lớn để hứng nước trời, nhà nghèo thì xây bể bé. Quả thực năm đó (2010), bất luận giàu hay nghèo, bể to hay bể nhỏ, tất cả đều ngửa cổ kêu trời”, ông Đại kể.

Nguồn nước trời chủ yếu dùng để nấu nướng. Còn tắm rửa thì ra biển nhúng nước rồi về nhà đứng trong cái thau xối lại ít gáo nước ngọt cho trôi đi muối mặn để bớt ngứa ngáy. Nước trong chiếc thau đó được sử dụng để tưới cây sau vườn nhà.

Trẻ con phải đứng tắm trong thau để tận dụng nước. Ảnh: Phạm Đương (chụp năm 2010)

Trẻ con phải đứng tắm trong thau để tận dụng nước. Ảnh: Phạm Đương (chụp năm 2010)

Giải cơn “khát”

Năm 2012, Công ty Công nghiệp tàu thủy Doosan Vina (có nhà máy tại Khu Kinh tế Dung Quất) đã tặng cho đảo Bé một nhà máy lọc nước biển thành nước ngọt trị giá trên 20 tỷ đồng, công suất 200 m3/ngày. Tuy nhiên, thực tế nhà máy này cũng chỉ cung cấp được khoảng 30 - 40 m3 nước ngọt/ngày.

Đến tháng 3/2020, ba xã của huyện Lý Sơn là An Hải, An Vĩnh và An Bình bị xóa tên, Lý Sơn chỉ còn một đơn vị hành chính cấp huyện. Vì không còn xã An Bình nữa nên huyện Lý Sơn giao nhà máy nước cho Đội Quản lý trật tự xây dựng - Đô thị và môi trường trực tiếp quản lý, điều hành hơn 4 năm qua. Vì hoạt động trong môi trường nước biển, lại không được tu bổ, sửa chữa thường xuyên nên hai tổ máy của nhà máy này bị xuống cấp, hư hỏng. Đến tháng 9/2023, nhà máy chính thức ngừng hoạt động. Dân đảo Bé lại quay về thời kỳ hứng nước mưa tích trữ và mua nước ngọt từ đảo Lớn sang với giá từ 180 - 250 ngàn đồng/m3.

Bà Phạm Thị Hương - Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn cho biết, từ ngày nhà máy xử lý nước biển thành nước ngọt đi vào hoạt động đã cung cấp được phần nào nhu cầu sử dụng nước ngọt cho người dân trên đảo. Tuy nhiên nhà máy thường xuyên bị trục trặc, việc cung cấp nước hay bị gián đoạn, nhất là vào mùa khô, người dân phải mua nước từ đảo Lớn sang với giá rất cao. Sắp tới, huyện sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm phương án cung cấp nước, không chỉ phục vụ cho hơn 100 hộ dân đảo Bé, mà còn đáp ứng nhu cầu của hàng ngàn khách du lịch thăm đảo.

Mới đây, huyện Lý Sơn đã trích kinh phí địa phương, phối hợp với Công ty Doosan Vina sửa lại số máy móc bị hỏng hóc. Đến nay, nhà máy nước đã hoạt động trở lại, dù nguồn nước ngọt không dồi dào nhưng cũng tạm đủ để người dân sinh hoạt hàng ngày. Bà Nguyễn Thị Bông, cư dân của đảo cho biết, mỗi nhân khẩu được cung cấp 2 m3/tháng với giá hỗ trợ là 8.500 đồng/m3. Do điều kiện khắc nghiệt, nhu cầu sử dụng và phục vụ khách du lịch cao, nhà máy chỉ đáp ứng một phần nên nếu ai dùng vượt quá số quy định ấy thì phải chịu giá nước rất cao, khoảng 50.000 đồng/m3.

“Hiện nhà nào cũng vẫn tích trữ nguồn nước mưa trong lu. Bởi, nhà máy hay bị hư hỏng, có lúc ngừng hoạt động cả tháng trời”, bà Bông nói.

Dù khát nước, nhưng lượng du khách ra đảo Bé ngày càng đông, người dân đảo Bé cũng thạo dần với việc làm du lịch. Khu vực quanh bãi tắm, những chòi bằng lá dừa đơn sơ để che nắng được dựng lên. Dân đảo cho thuê áo phao, kính lặn biển, dịch vụ tắm nước ngọt... Dưới những ghềnh đá, nhiều người tận dụng làm nơi phục vụ du khách nghỉ ngơi và thưởng thức các món hải sản do tự mình nướng lấy. Chỉ có điều một phần không nhỏ doanh thu từ du lịch được bà con dùng để sang đảo bên… mua nước!

Theo Nguyễn Ngọc (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null