Đầu năm đi kéo lưới rùng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Mấy ngày nay, sáng nào cũng có gần 20 ngư dân đi kéo lưới rùng ở bãi biển Mỹ Khê, TP.Quảng Ngãi (Quảng Ngãi).
Cái nghề oằn tay, mỏi lưng, chùn gối này tưởng chừng đã thành dĩ vãng nhưng nay vẫn còn duy trì, cho người dân ở đây có thu nhập khá. Sáng, người bạn gọi: “Xuống Mỹ Khê kéo rùng không?”. Ngỡ anh bạn đùa, bởi cái nghề mưu sinh kéo lưới rùng này đã “cổ lỗ sĩ” rồi, ai còn làm nữa. Ai ngờ, xuống đến bãi biển Mỹ Khê, chúng tôi chứng kiến gần 20 ngư dân, cả đàn ông, đàn bà đang khom lưng kéo cá từ biển vào bờ.

 
Cá, tôm… từ kéo lưới rùng. Ảnh: Hải Phong
Cá, tôm… từ kéo lưới rùng. Ảnh: Hải Phong
Kéo cá lên bờ
Hôm ấy, biển Mỹ Khê còn mờ trong sương. Mưa xuân lất phất, pha chút lạnh se se. Trên bãi biển, chúng tôi gặp ông Phạm Có (65 tuổi, ở thôn Kỳ Xuyên, xã Tịnh Kỳ, TP.Quảng Ngãi) cùng một thanh niên chèo thuyền thúng đi thả lưới trên biển. Tấm lưới dài khoảng 3.000 m, ông Có phải đánh một vòng bán nguyệt trên biển, lưới căng ra từ bờ ra biển khoảng 1,5 km, rồi lại từ biển vào bờ, hai bên đầu lưới cách chừng 100 m, phải mất khoảng 30 phút mới xong.
Lưới ngư dân dùng để kéo rùng có dạng hình cánh cung thon dần về phía sau, mắt lưới rất nhỏ chỉ nhỉnh hơn đầu đũa ăn cơm. Sau khi thả lưới, gần 20 con người oằn lưng, hai bàn chân “xuống tấn” trên cát, kéo từ từ hai đầu lưới từ biển vào bờ. Xa xa trên ngọn sóng bạc, cá bơi trúng lưới vọt lên không xoay tròn một vòng rồi rơi xuống biển, trong vòng vây của sóng lưới lung linh. Khi lưới càng gần vào bờ, cá nhảy lên càng nhiều.
Sau hai giờ kéo lưới, mẻ cá đầu tiên đã nằm trên cát trắng, có cá liệt, cá hố, cá lẹp, cá đối, cá chim, cá cơm, mực, tôm, cua và nhiều loại khác nhau, chừng gần 20 kg. Lúc này, ngư dân bắt đầu gỡ cá ra khỏi mắt lưới, tập trung lại một nơi và bán cá cho tư thương, khách du lịch, người đang tắm biển tại đây.
Ngồi trên bãi cát nghỉ ngơi sau 2 mẻ lưới, bà Lê Thị Vương (50 tuổi, ở thôn Kỳ Xuyên, xã Tịnh Kỳ) cho biết kéo lưới rùng là cách đánh bắt hải sản bằng lưới gần bờ khá độc đáo của bà con vùng biển này. Nghề này bắt đầu khi ăn tết cổ truyền xong và kết thúc vào tháng 9 âm lịch. Việc kéo lưới rùng ngư dân thường chọn vào sáng sớm, tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào thời tiết nên không cố định thời gian trong ngày: cứ thấy biển lặng thì cùng nhau mang lưới ra biển, còn biển động thì cầu trời cho biển yên.
Bà Vương chia sẻ kéo lưới từ 7 - 11 giờ là được một giáp, dùng thuyền thúng chèo ra để thả lưới. “Khi kéo vô mà có cá thì mình bán cho người dân hoặc đem ra bán ngoài chợ. Một ngày bình quân kéo khoảng vài chục ký hải sản, ít nhất cũng được hơn 10 kg”, bà Vương nói. Tiếp lời bà Vương, bà Phạm Thị Sa (75 tuổi, cũng ở thôn Kỳ Xuyên) cho hay bà sống ở vùng biển này mấy chục năm nhưng rất ít đi chợ mua cá. “Ở đây, ngư dân hay kéo lưới rùng trước nhà, tôi chờ khi lưới được kéo lên bờ sẽ mua cá về ăn. Cá ở đây vừa tươi mà còn ngon nữa, có khi cá kéo lên bờ có con to hơn bàn tay người lớn”, bà Sa nói.

Ngư dân kéo lưới rùng ở bãi biển Mỹ Khê. Ảnh: Phạm Anh
Ngư dân kéo lưới rùng ở bãi biển Mỹ Khê. Ảnh: Phạm Anh
3 đời theo nghề lưới rùng
Nghề kéo lưới rùng đã có từ rất lâu, được ngư dân ven biển ở tỉnh Quảng Ngãi duy trì đến ngày hôm nay. Nghề này tuy vất vả và không khá giả nhưng cũng mang lại thu nhập ổn định cho ngư dân nơi đây. Mỗi ngày kéo lưới ngư dân được từ 300.000 - 500.000 đồng/người. So với lênh đênh đánh bắt xa bờ, ngư dân sống bằng nghề này an toàn tính mạng hơn. Vì vậy có không ít gia đình theo nghề cha truyền con nối.
Riêng ở xã Tịnh Kỳ, nói đến nghề kéo lưới rùng không ai không nhắc đến tên ông Phạm Có. Gặp chúng tôi, ông Có cho biết nhà ông đã 3 đời theo nghề lưới rùng. Cho đến nay, ông vẫn miệt mài với nghề mưu sinh này trên biển hằng ngày. Gần 50 năm gắn bó với nghề, có lúc kéo lên chỉ thấy rong biển, rác quấn vào lưới, nhưng không hiểu sao, ông Có vẫn đam mê, cái nghề “lạc hậu” ấy cứ thế gắn bó mãi với ông.
Kéo một hơi khói thuốc chống lạnh, ông Có tâm sự nghề lưới rùng là nghề cổ truyền của ông bà để lại, đã qua bao thế hệ rồi. Lục lại ký ức, ông Có nói rằng từ cha ông để lại rồi đến ông đã gắn bó với nghề này gần 50 năm. Nghề lưới rùng xưa kia làm ăn được. Hơn nữa, xưa ít người có thuyền to ra biển, hầu như chỉ có thuyền thúng đan bằng tre, chèo ra thả lưới và kéo vào. Việc đơn giản nhưng có cá đổi gạo, làm nhà, cưới vợ, sinh con… nên ông bà ta sinh sống ven biển lựa chọn nghề này để mưu sinh. Hồi xưa, kéo lưới lên còn có cả cá thu, cá hố, cá bẹ… “Mỗi giáp (một buổi kéo rùng) ngày xưa kéo được 5 - 7 tạ cá. Càng về sau thì mỗi ngày càng ít lại. Nay đánh bắt cá trên biển với nhiều phương tiện hiện đại, nên nghề rùng không bằng ngày xưa”, ông Có thở dài nói.
Ông Có cho biết nghề lưới rùng bây giờ chỉ duy trì đến tháng 9 âm lịch nếu thời tiết thuận lợi. Đến tháng cuối này, biển yên thì kéo rùng, sóng lớn thì xếp lưới. Hiện nay, 3 dàn lưới rùng của ông Có, mỗi lần ra biển kéo từ 12 - 15 người, thu nhập bình quân một ngày mỗi người được từ 300.000 - 400.000 đồng, có hôm cao nhất lên đến 1 triệu đồng/người. “Tôi muốn duy trì nghề này, vì nghề này đem lại thu nhập ổn định cho ngư dân. Công việc cũng không vất vả nên phụ nữ cũng có thể làm được, kiếm mấy trăm ngàn trong ngày đâu phải khó”, ông Có trải lòng.
Nghề mỗi năm mỗi vắng
Nghề kéo lưới rùng không chỉ ở xã Tịnh Khê, Tịnh Kỳ, TP.Quảng Ngãi, mà còn có ở các xã: Đức Minh, H.Mộ Đức; xã Bình Châu, xã Bình Thạnh của H.Bình Sơn (Quảng Ngãi). Tuy nhiên, số lượng ngư dân theo nghề đã giảm so với ngày xưa. Ngư dân Nguyễn Văn Năm (ở xã Tịnh Kỳ) bảo đã theo cái nghề “đi giật lùi trên cát” này hơn 20 năm. Dù tốn ít chi phí, thời gian hành nghề trong ngày ngắn và từng có thời hái ra tiền, nhưng các vùng biển có nghề này mỗi năm một vắng. Như ở xã Tịnh Kỳ, từng có 20 chủ thuyền và khoảng 300 ngư dân mưu sinh với nghề. Giờ thì số thuyền đếm không đủ một bàn tay, lao động chỉ mấy mươi con người còn sót lại, níu giữ nghề truyền thống cha ông.
Gìn giữ để phục vụ du lịch
Ông Nguyễn Hoài Thanh, Chủ tịch UBND xã Tịnh Kỳ, TP.Quảng Ngãi, cho biết nghề kéo lưới rùng thuộc nghề truyền thống lâu đời ở vùng biển này. Thế nhưng đến hiện nay, chỉ có khoảng 3 gia đình còn theo nghề, còn lại ngư dân đã chuyển nghề biển khác. Nguyên nhân là do mỗi chuyến kéo lưới cần nhiều lao động, mà thu nhập nghề này bấp bênh, đánh cá phải theo con nước, theo mùa.
Ông Thanh cho rằng nên giữ nghề này lại. Bởi đến nay nhiều du khách đến bãi biển này sinh hoạt đã trải nghiệm với nghề lưới rùng, ngư dân có thêm thu nhập. Trong xu thế về sau, khi phát triển du lịch biển ở đây, nghề này sẽ là “sản phẩm” trải nghiệm thu hút khách du lịch không kém nghề khác.
Rồi ngư dân Năm “kết luận”: “Hải sản ven bờ mỗi ngày một giảm. Ngày trước kéo một mẻ lưới kiếm vài tạ cá. Vậy mà giờ, mỗi mẻ chỉ còn khoảng vài chục ký. Hỏi ai còn đeo đuổi nghề này nữa?”.
Ngư dân Nguyễn Phương (ở thôn Minh Tân Bắc, xã Đức Minh, H.Mộ Đức) cũng cho biết thôn nổi tiếng với nghề lưới rùng, mà nay chỉ có 4 thuyền hành nghề. Ông Phương thở dài: “Nguyên nhân, phần thì cá ven bờ sụt giảm, phần thì chủ nuôi tôm xả thải ra biển gây ô nhiễm. Dần dà, ngư dân thôn đành chuyển nghề khác mưu sinh, không bám vào nghề lưới rùng để sống nữa”.
Có một đêm ra bãi biển Khe Hai, xã Bình Thạnh, H.Bình Sơn, chúng tôi chứng kiến ngư dân ở đây đang kéo lưới rùng, nhưng chỉ là “diễn” để phục vụ du khách với giá mỗi buổi 700.000 đồng. Khách trải nghiệm kéo lưới rùng, nếu có cá thì lấy hết để nhậu, còn không có cá thì cười xòa với biển. Chỉ có ngư dân vùng này cầm tiền trên tay mà buồn: nghề chính mưu sinh một thời, giờ dường như chỉ để vui là chính.
Theo Phạm Anh - Hải Phong (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

null