Cao nguyên đá Đồng Văn: Danh thắng hoang sơ và hùng vĩ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cao nguyên thường lạnh và buồn. Lên Đồng Văn càng cảm nhận rõ điều đó cùng sự cô liêu của miền biên viễn khi độc hành qua hàng trăm cây số miên man đá.

 Có núi đá chiếm tới 70% diện tích tự nhiên, 30% còn lại là đất... lẫn đá, cao nguyên Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) có lẽ đặc biệt nhất trong các di sản được UNESCO công nhận ở nước ta.
Có núi đá chiếm tới 70% diện tích tự nhiên, 30% còn lại là đất... lẫn đá, cao nguyên Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) có lẽ đặc biệt nhất trong các di sản được UNESCO công nhận ở nước ta.
Trải dài trên bốn huyện biên giới phía bắc: Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn, với diện tích hơn 2.350km2, vùng cao này đã được gọi là “cao nguyên đá” từ khi nó chưa được mang danh di sản, cùng với những ví von mỹ miều: vũ điệu của những khối đá, rừng hoa đá, biển đá...
Trải dài trên bốn huyện biên giới phía bắc: Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn, với diện tích hơn 2.350km2, vùng cao này đã được gọi là “cao nguyên đá” từ khi nó chưa được mang danh di sản, cùng với những ví von mỹ miều: vũ điệu của những khối đá, rừng hoa đá, biển đá...
 Từ cột cây số 0 ở thành phố Hà Giang, lên tới thị trấn Tam Sơn (trung tâm huyện Quản Bạ - “vùng thấp” của cao nguyên đá) là 40km; song mới đi quá nửa quãng đường, tới ranh giới Quản Bạ là đã chạm vào cao nguyên đá, là bắt đầu hành trình đèo dốc, là cảm giác rợn ngợp trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, tạo hóa.
Từ cột cây số 0 ở thành phố Hà Giang, lên tới thị trấn Tam Sơn (trung tâm huyện Quản Bạ - “vùng thấp” của cao nguyên đá) là 40km; song mới đi quá nửa quãng đường, tới ranh giới Quản Bạ là đã chạm vào cao nguyên đá, là bắt đầu hành trình đèo dốc, là cảm giác rợn ngợp trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, tạo hóa.
Càng đi càng cảm nhận đá là chất liệu, là đường nét, là hình khối, là màu sắc, là âm hưởng chủ đạo của ngút ngàn cao nguyên này.
Càng đi càng cảm nhận đá là chất liệu, là đường nét, là hình khối, là màu sắc, là âm hưởng chủ đạo của ngút ngàn cao nguyên này.
 Cuộc sống của khoảng 250.000 con người thuộc 17 dân tộc nơi đây (mà 70% là người Mông) là cuộc sinh tồn với đá, với địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt.
Cuộc sống của khoảng 250.000 con người thuộc 17 dân tộc nơi đây (mà 70% là người Mông) là cuộc sinh tồn với đá, với địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt.
Nhưng chính nhờ đó, lại hiện diện rõ nét, lấp lánh, tỏa sáng những giá trị văn hóa và kiến trúc bản địa độc đáo
Nhưng chính nhờ đó, lại hiện diện rõ nét, lấp lánh, tỏa sáng những giá trị văn hóa và kiến trúc bản địa độc đáo
Ngày 3/10/2010, cao nguyên đá Đồng Văn được UNESCO chính thức công nhận là Công viên địa chất toàn cầu.
Ngày 3/10/2010, cao nguyên đá Đồng Văn được UNESCO chính thức công nhận là Công viên địa chất toàn cầu.
 Đây là danh hiệu đầu tiên - duy nhất ở Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á.
Đây là danh hiệu đầu tiên - duy nhất ở Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á.
 Cũng từ đây, cao nguyên đá Đồng Văn mang một cái tên dài và mỹ miều hơn: Công viên địa chất toàn cầu 'Cao nguyên đá Đồng Văn'.
Cũng từ đây, cao nguyên đá Đồng Văn mang một cái tên dài và mỹ miều hơn: Công viên địa chất toàn cầu 'Cao nguyên đá Đồng Văn'.
Cao nguyên cũng dễ cho người ta những giấc mơ, như thể ở trên cao thì dễ thăng hoa bay bổng.
Cao nguyên cũng dễ cho người ta những giấc mơ, như thể ở trên cao thì dễ thăng hoa bay bổng.
Hơn một trăm năm trước, các học giả người Pháp đã gọi đỉnh Mã Pì Lèng (Mèo Vạc) có độ cao 2.000m so với mặt nước biển và cao nguyên đá Đồng Văn là “Tượng đài địa chất”. Đèo dài 12km trên cung đường 22km từ Đồng Văn tới Mèo Vạc - con số này nghe qua quá ư khiêm tốn, nhưng ở đây nó xứng đáng là kỷ lục.
Hơn một trăm năm trước, các học giả người Pháp đã gọi đỉnh Mã Pì Lèng (Mèo Vạc) có độ cao 2.000m so với mặt nước biển và cao nguyên đá Đồng Văn là “Tượng đài địa chất”. Đèo dài 12km trên cung đường 22km từ Đồng Văn tới Mèo Vạc - con số này nghe qua quá ư khiêm tốn, nhưng ở đây nó xứng đáng là kỷ lục.
Cung đường mang tên Hạnh Phúc được hoàn thành trong sáu năm (1959 - 1965) với sức người của hàng vạn thanh niên xung phong cùng 2,2 triệu ngày công lao động. Trên bia đá ở đỉnh đèo nay vẫn còn ghi: “Riêng dốc Mã Pì Lèng công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường”.
Cung đường mang tên Hạnh Phúc được hoàn thành trong sáu năm (1959 - 1965) với sức người của hàng vạn thanh niên xung phong cùng 2,2 triệu ngày công lao động. Trên bia đá ở đỉnh đèo nay vẫn còn ghi: “Riêng dốc Mã Pì Lèng công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường”.


CTV Hà Thành/VOV.VN

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.