41 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc - Kỳ 1: Những công nhân ở tuyến đầu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (17.2.1979), công nhân và tiểu đoàn tự vệ mỏ Apatit Lào Cai, công nhân các nhà máy Điện Lạng Sơn, Lào Cai…đã bảo vệ nhà máy đến phút cuối cùng...
Khu tập thể nhà máy Điện Lào Cai bị tàn phá - Ảnh: Tư liệu của tác giả
Khu tập thể nhà máy Điện Lào Cai bị tàn phá - Ảnh: Tư liệu của tác giả
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (17.2.1979) có một lực lượng chiến đấu thầm lặng, đó là những công nhân, viên chức ở các nhà máy, hầm mỏ… Họ cũng đã cùng chung sức chiến đấu với lực lượng vũ trang mà đôi khi vẫn còn ít được nhắc đến.
Như công nhân và tiểu đoàn tự vệ mỏ Apatit Lào Cai, công nhân các nhà máy Điện Lạng Sơn, Lào Cai… đã từng dũng cảm cầm cự, bảo vệ nhà máy, bảo vệ tài sản của nhà nước đến phút cuối cùng, dù có phải hy sinh.
Viên ngọc vùng biên cương
Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô lúc đó, 2 nhà máy Điện Vinh và Lào Cai được khởi công xây dựng vào những năm 1957 - 1959. Nhà máy Điện Lào Cai với công suất thiết kế chỉ với 8MW (8000kw) lúc đó đã là điều rất quý hiếm. Đến tháng 11.1959 nhà máy Điện Lào Cai được khánh thành.
Còn nhớ khi đó trong lễ khánh thành, nhà máy được trang hoàng 1.500 bóng đèn… toàn bộ nhà máy và ống khói cao 45 m, cả bầu trời Lào Cai vùng biên giới rực sáng ánh điện suốt những đêm đông giá lạnh. Nhân dân, đặc biệt là các đồng bào dân tộc Lào Cai kéo về nhà máy để chiêm ngưỡng ánh điện đầu tiên của cả vùng biên cương.

Nhà máy điện Lào Cai lung linh với hàng ngàn bóng đèn thắp sáng suốt 7 ngày đêm như viên ngọc vùng biên là niềm tự hào của cán bộ công nhân viên nhà máy và cả nhân dân tỉnh Lào Cai khi đó. Nhà máy Điện Lào Cai vận hành cung cấp điện cho Mỏ Apatit Lào Cai và cả cho thị trấn Hồ Kiều của Trung Quốc (đến năm 1961).

Nhà máy nhiệt điện Lào Cai - Ảnh: Tư liệu của tác giả
Nhà máy nhiệt điện Lào Cai - Ảnh: Tư liệu của tác giả
Sẵn sàng cho chiến đấu
Thời gian từ giữa năm 1978, phía Trung Quốc tổ chức cho người sang Việt Nam đi vào các huyện vùng biên mua rất nhiều trâu bằng cách đổi cho đồng bào ta chăn màn, vải vóc, phích nước vì thời gian này các mặt hàng đó rất hiếm ở Việt Nam. Một con trâu có thể đổi được 4 - 5 vỏ chăn hoặc hàng chục mét vải và phích nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăm con trâu đã được đổi chác mang về Trung Quốc, nhưng họ đổi trâu làm gì thì không ai biết mục đích, chỉ nghĩ là nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Khi đó ta chỉ giải thích, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc phải giữ trâu để bảo vệ sản xuất, nhưng nạn đổi trâu và hàng hóa vẫn diễn ra…
Cùng với các hiện tượng đó, phía Trung Quốc liên tục củng cố và phát triển các hệ thống quân sự, họ kéo pháo, xây công sự trên các điểm cao mà hằng ngày từ phía Lào Cai nhìn sang thấy rất rõ. Họ còn dùng hệ thống loa phát thanh với công suất rất lớn, chĩa sang phía Lào Cai, nói xấu Việt Nam.
Đầu năm 1979, sau Tết, tình hình biên giới Lào Cai ngày càng căng thẳng. Nhà máy Điện Lào Cai khi đó đã được tỉnh Hoàng Liên Sơn xác định là một trọng điểm cần được bảo vệ và giữ vững trong mọi tình huống. Thời kỳ đầu năm 1979 liên tục nhiều đoàn của ngành điện, của quân khu đến nhà máy kiểm tra, phổ biến tình hình và động viên CBCNV nhà máy “giữ vững, vận hành an toàn nhà máy trong mọi tình huống”. Tất cả CBCNV nhà máy rất yên tâm phấn khởi với khẩu hiệu “Một tất không đi, một ly không dời”.
Đại đội Tự vệ của nhà máy được trang bị thêm nhiều súng AK, công sự được đào ven bờ sông quanh nhà máy, CBCNV ngày đêm đào hầm trú ẩn cho các gia đình.
Cũng vì khẩu hiệu “Một tất không đi, một ly không dời” đó nên số CBCNV và con em mình vẫn ở nguyên tại các khu tập thể, không một ai đi sơ tán. Đặc biệt những cán bộ, đảng viên và gia đình đều gương mẫu không một ai cho gia đình họ sơ tán về tuyến sau.
Lực lượng dân quân tự vệ của thị xã được huy động làm hàng rào bằng dây thép gai bên bờ sông Nậm Thị phía Lào Cai dài hơn 10km. Hàng rào làm xong khi đêm xuống sẽ đóng điện để ngăn thám báo vượt biên giới sang Lào Cai quấy rối, phá hoại. Do hàng rào điện được hình thành vì vậy ngoài nhiệm vụ vận hành đảm bảo an toàn hệ thống điện cung cấp cho Mỏ Apatit Lào Cai đang sản xuất thì nhà máy còn có nhiệm vụ cung cấp điện cho hệ thống hàng rào phòng thủ quan trọng này.
17.2.1979 không bao giờ quên
5 giờ sáng ngày 17.2.1979, các gia đình ở khu tập thể của nhà máy đã thức dậy vì nghe rất nhiều tiếng động ầm ì như tiếng sấm báo hiệu như sắp có mưa, nhưng rồi những tiếng sấm đó ngày càng cấp tập và nghe càng gần hơn. Chỉ khoảng nửa tiếng sau thì những tiếng nổ của pháo từ phía Trung Quốc bắn cấp tập sang thị xã Lào Cai. Tất cả mọi người vội vàng dắt díu con cái còn đang ngái ngủ ra hầm trú ẩn. Pháo Trung Quốc ngày càng cấp tập, chuyển làn vào trung tâm thị xã, rót trực tiếp vào nhà máy.
8 giờ sáng, pháo từ phía Trung Quốc tạm dừng, tất cả nam CNVC của nhà máy và đại đội tự vệ được tập trung trong nhà máy để được phân công nhiệm vụ. Ban chỉ huy nhà máy được hội ý khẩn cấp để phân công. Người lo điều hành nhà máy để đảm bảo phát điện liên tục, người điều hành lực lượng tự vệ, người lo công tác sơ tán người già, phụ nữ và trẻ em…
Đến khoảng 9 giờ, pháo lại cấp tập bắn vào nhà máy. Giữa lúc đó kíp vận hành lò báo than đã gần hết, phải khẩn trương tiếp than cho lò để duy trì cho máy phát điện liên tục (lúc này mỏ Apatit vẫn đang làm việc với các máy xúc lớn cần tới 500 kw mỗi máy). Nhưng tất cả máy xúc than, các ô tô đậu ở nhà xe đã bị pháo phá hủy hoàn toàn.
Thế là anh Trung Vân, anh Thừa (giám đốc và bí thư Đảng ủy) đứng giữa anh em hô hào rất nghiêm chỉnh và tha thiết rằng: Chúng ta đã hứa với cấp trên là đảm bảo vận hành nhà máy đến phút cuối cùng, vậy chúng tôi kêu gọi tất cả anh em, trước hết là các Đảng viên, hãy cầm xẻng ra ngay bãi than để xúc than và tải lên lò đảm bảo cho nhà máy chạy.
Thế là mấy chục anh em mỗi người một xẻng chạy dưới làn đạn pháo đang nã vào nhà máy. Tất cả chúng tôi khẩn trương xúc từng xẻng than vào bon ke, chẳng mấy chốc bon ke than đã đầy. Lúc này cần người lên băng tải than để bấm máy cho băng tải chạy đưa than vào bon ke của lò đang vận hành.
Tôi đã từng là dân thợ lò, lúc đó nhà băng tải pháo bắn kính vỡ hết. Tôi phải bò trên những mảnh kính vỡ và chỉ khoảng 5 phút sau hệ thống 2 băng tải đã vận hành chuyển được hàng tấn than cung cấp cho lò rực lửa hồng giữa những làn đạn pháo vẫn bắn xối xả vào nhà máy. Tập trung tại nhà máy lúc đó có khoảng 40 anh em hầu hết là Đảng viên, Đoàn viên Thanh niên.
Đến khoảng hơn 10 giờ đạn pháo của Trung Quốc bắn cấp tập làm đứt đường dây 35kv, mạch chính cung cấp điện vượt sông Hồng vào mỏ Apatit Lào Cai. Công suất nhà máy lúc này chỉ còn cung cấp điện nội bộ. Lãnh đạo nhà máy chúng tôi họp lại, có ý kiến nêu ngừng nhà máy, nhưng đa số đều quyết định vẫn tiếp tục vận hành giữ dòng điện đến cùng vì lúc này biết đâu hệ thống hàng rào ven sông Nậm Thị đã được đóng ngăn quân Trung Quốc tràn sang. Chúng tôi lại cầm cự giữ cho nhà máy vận hành bình thường.
Đến gần 11 giờ 30 phút đây là thời gian sắp đến giờ kéo còi tạm nghỉ trưa như thường lệ, nhưng hôm nay giữa lúc chiến tranh ác liệt này liệu có còn ai đi làm mà kéo còi, nhưng giám đốc Trung Vân vẫn ra lệnh, kéo còi tầm đúng 11 giờ 30 phút.
Anh Trung Vân giải thích rằng: kéo còi lúc này là để báo cho nhân dân Lào Cai và bộ đội trực trên các điểm cao biết rằng nhà máy Điện Lào Cai chúng ta vẫn duy trì dòng điện đến cùng.
Sau tiếng còi vang lên báo hiệu nhà máy vẫn đang chạy, tiếng còi vọng cả sang phía Trung Quốc. Tức thì làn đạn pháo bắn rất cấp tập, đạn pháo lúc này bắn thẳng vào nhà máy mà không bắn kiểu cầu vồng như những lần trước.
Cả nhà máy rung chuyển, bui than bay mù mịt khắp nơi, mùi thuốc pháo, bụi than bao trùm khắp ngõ ngách nhà máy, 40 con người chúng tôi đen nhẻm bụi than.
Tất cả chúng tôi tụ lại dưới hầm nhà máy và phân công nhau ngừng nhà máy cấp tốc để bảo toàn lực lượng. Việc ngưng nhà máy cấp tốc nhưng không được vội vàng và phải làm đúng quy trình đã đề ra. Trong bụi than và nồng nặc mùi thuốc pháo chúng tôi vẫn bình tĩnh thao tác thuần thục các thiết bị để ngừng nhà máy. Lúc đó chúng tôi vẫn tâm niệm: nhà máy chỉ tạm thời ngừng để ít ngày nữa trở lại vận hành lại nhà máy.
Từ trên các điểm cao của quân Trung Quốc, thấy nhà máy khói đen bao phủ, các họng pháo ngưng không bắn nữa, thực ra một số đạn pháo đã bắn trúng bon ke chứa than nên bụi than bao phủ toàn bộ nhà máy (còn tiếp)
Theo Nguyễn Văn Kỷ (ThanhNiên)

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null