Rừng-biển kết nối

Thạc sĩ Nguyễn Ái Tâm: Khi rừng là nhà…

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Là cán bộ quản lý vùng dự án (thuộc Hội Động vật học Frankfurt tại Việt Nam) ở Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh (tỉnh Gia Lai), gần 20 năm qua, Thạc sĩ Nguyễn Ái Tâm không chỉ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, bảo tồn voọc chà vá chân xám, mà còn góp sức bảo tồn đa dạng sinh học tại đây.

Góp phần bảo tồn loài linh trưởng cực kỳ nguy cấp và đặc hữu của Việt Nam

* Trong khi bạn bè đồng trang lứa tìm kiếm cơ hội ở những thành phố lớn thì anh “đâm đầu” vào rừng…

Kể ra tôi đi theo “tiếng gọi” của ngành bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học cũng rất tình cờ. Cơ duyên bắt nguồn từ khóa tập huấn về thú linh trưởng Việt Nam do Hội Động vật học Frankfurt tại Việt Nam (viết tắt là FZS) tổ chức ở bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) năm 2007.

Lúc đó, tôi vừa ra trường và nhiều điều thú vị tại khóa tập huấn đã thôi thúc trong tôi mong muốn được đến với núi rừng. Vì vậy, tôi mạnh dạn đăng ký tham gia chương trình nghiên cứu tập tính của loài voọc chà vá chân xám tại Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh (VQG) và bén duyên với bảo tồn từ đó đến nay.

* Gần 20 năm nghiên cứu bảo tồn voọc chà vá chân xám tại VQG Kon Ka Kinh, với anh đâu là kỷ niệm không thể quên?

Kỷ niệm đáng nhớ nhất là lần đầu tiên được gặp đàn voọc chà vá chân xám trong một chuyến thực địa dài ngày vào rừng sâu cùng cán bộ VQG Kon Ka Kinh. Cần biết rằng, với số lượng ít ỏi (hơn 1.500 cá thể) phân bố trên diện tích gần 42.000 ha của VQG Kon Ka Kinh, việc theo dấu voọc chà vá chân xám để nghiên cứu tập tính sinh thái của chúng không hề dễ dàng.

Đến bây giờ, tôi vẫn không quên được cảm giác vui sướng khi lần đầu nhìn thấy đàn voọc 7 con đang leo trèo, ăn lá cây, dù chỉ là qua… ống nhòm.

Thạc sĩ Nguyễn Ái Tâm (thứ 2 từ trái sang) trong một chuyến thực địa cùng cán bộ Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Ảnh: Minh Phương

* Từ việc sử dụng phương pháp điều tra tuyến, anh đã giúp ghi nhận chính xác số lượng voọc chà vá chân xám của VQG Kon Ka Kinh với hơn 1.500 cá thể (so với ghi nhận trước đây chỉ 300-500 cá thể). Vì sao số cá thể lại tăng nhanh như vậy?

Với voọc chà vá chân xám, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giám sát định kỳ 5 năm/lần. Điều thuận lợi là hiện nay, Dự án nghiên cứu bảo tồn voọc chà vá chân xám được FZS hỗ trợ trang thiết bị và kỹ thuật tuần tra bằng ứng dụng Smart. Với ứng dụng này, đội tuần tra tại các trạm bảo vệ rừng của VQG Kon Ka Kinh dễ dàng thu thập dữ liệu trên tuyến khi tuần tra.

Từ đây, Ban Quản lý VQG Kon Ka Kinh có thể nắm rõ dữ liệu tuần tra trên toàn bộ diện tích, có biện pháp tháo gỡ bẫy động vật và ngăn ngừa người dân xâm nhập vùng lõi của VQG Kon Ka Kinh. Nhờ công tác quản lý tốt, mức độ xáo trộn của môi trường sống tự nhiên ít nên các loài động vật có xu hướng quay trở lại, tăng về số lượng.

Ngoài voọc chà vá chân xám, chúng tôi còn ghi nhận sự phát triển ổn định của quần thể vượn má vàng Trung Bộ, sự xuất hiện của các loài thú như mang Trường Sơn, mang lớn, sơn dương và cả loài tê tê vàng-loài thú cực kỳ nguy cấp, có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới.

Dấn thân với ngành bảo tồn thiên nhiên

* Theo anh, công tác bảo tồn đa dạng sinh học đang gặp khó ở khâu nào? Với vai trò cán bộ quản lý vùng dự án của FZS tại VQG Kon Ka Kinh, anh đã làm gì để hỗ trợ thực hiện công tác này?

Khó khăn lớn nhất của công tác bảo tồn hiện nay nằm ở khâu quản lý và ý thức của cộng đồng địa phương. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh có diện tích rất lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng lại rất mỏng, mỗi trạm bảo vệ rừng chỉ có tầm 5-7 cán bộ quản lý khiến việc kiểm tra, tuần tra gặp khó. Trong khi đó, ý thức quản lý và bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư Bahnar sinh sống ở vùng đệm chưa cao; đời sống kinh tế bà con khó khăn, phụ thuộc nhiều vào rừng (săn bắn, thu hái lâm sản phụ…).

Dưới góc độ người làm dự án, tôi đã có thời gian dài hỗ trợ công tác quản lý bảo tồn thiên nhiên tại VQG Kon Ka Kinh với các nhiệm vụ chính như: hỗ trợ nghiên cứu và giám sát, đặt ứng dụng bẫy ảnh (camera trap) giúp đánh giá tính đa dạng và phân bố của các loài trên toàn bộ diện tích của VQG Kon Ka Kinh. Đồng thời hỗ trợ công tác tuần tra và thực thi pháp luật; hỗ trợ tập huấn và ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác tuần tra, bảo vệ rừng, nhất là ứng dụng Smart như đã nói ở trên.

Cùng với đó, tôi phối hợp cùng cán bộ VQG Kon Ka Kinh truyền thông nâng cao ý thức của cộng đồng cư dân vùng đệm về hạn chế săn bắn; phối hợp với chính quyền địa phương cùng lực lượng công an để thu giữ súng, bẫy động vật, thực hiện ký cam kết không kinh doanh buôn bán động vật hoang dã tại các hộ kinh doanh. Mặt khác, hướng dẫn người dân cải thiện sinh kế thông qua mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng, mở rộng dịch vụ du lịch sinh thái cộng đồng…

* Thường xuyên thực địa giữa rừng, có lẽ anh hiểu rõ những nguy hiểm đến từ nhiều phía?

Đúng vậy, có nhiều đợt thực địa kéo dài 7-10 ngày ở những khu vực rừng sâu, không có sóng điện thoại, thiếu thức ăn. Đặc biệt, những đợt lội rừng vào mùa mưa thì rất dễ mắc bệnh dai dẳng. Một số loài động vật gặp phải trên đường như rắn độc, thú cỡ lớn cũng là những mối đe dọa không nhỏ. Song may mắn là chưa khi nào chúng tôi rơi vào tình huống nguy hiểm thật sự.

Thạc sĩ Nguyễn Ái Tâm hỗ trợ đặt bẫy ảnh tại Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Ảnh: Minh Phương

Bước chân không mỏi

* Gắn bó với rừng từ đó đến nay, trước những thử thách của công tác bảo tồn đa dạng sinh học, có bao giờ anh cảm thấy đơn độc?

Trong chặng đường tham gia nghiên cứu và bảo tồn thiên nhiên, tôi được sự đồng hành của nhiều anh em đồng nghiệp. Lực lượng bảo vệ rừng tại VQG Kon Ka Kinh cũng xem mình như người nhà nên tôi không những không thấy đơn độc mà trái lại luôn vững tâm.

Ngày mới ra trường, tôi có đi dạy song lúc đó cảm thấy chưa phù hợp lắm nên rẽ hướng sang nghiên cứu bảo tồn. Như là duyên nợ, sau một thời gian dài làm nghiên cứu, tôi được mời hỗ trợ giảng dạy, tập huấn cho sinh viên các trường đại học về công tác nghiên cứu, bảo tồn thiên nhiên. Giờ đây, với kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đã có, tôi thấy thật hạnh phúc khi có dịp hỗ trợ các bạn trẻ có cùng đam mê trong lĩnh vực này.

* Cảm giác của anh khi được gọi vui là “người rừng”?

Cũng khá thú vị và ý nghĩa! Có lần, khi được tôi hướng dẫn đi khảo sát các tuyến trong rừng tự nhiên, có bạn sinh viên hỏi: “Vì sao thầy đi rừng mà không nghe tiếng bước chân và tiếng thở nặng nhọc? Thầy không mệt ạ?”. Có lẽ, khoảng thời gian dài dõi theo từng cú nhảy của những đàn voọc chà vá chân xám cùng đam mê với ngành bảo tồn đã giúp bản thân được tôi luyện, từ đó vượt qua nhiều thử thách. Tôi thấy mình thật sự may mắn vì đã lựa chọn con đường nghiên cứu và bảo tồn thiên nhiên.

Anh Nguyễn Ái Tâm sinh năm 1982 tại Quảng Trị, tốt nghiệp cử nhân ngành Sinh - Môi trường, sau đó tiếp tục chương trình đào tạo thạc sĩ ngành Sinh thái học tại Trường ĐH Sư phạm Đà Nẵng. Anh có nhiều đóng góp quan trọng cho các dự án như nghiên cứu tập tính sinh thái của loài voọc chà vá chân nâu tại bán đảo Sơn Trà (TP Đà Nẵng), loài voọc chà vá chân đen tại bán đảo Hòn Hèo (tỉnh Khánh Hòa) và loài voọc chà vá chân xám tại VQG Kon Ka Kinh (tỉnh Gia Lai)…

Ngày 26-11 tới đây, nhân kỷ niệm 15 năm hoạt động của FZS ở khu vực Tây Nguyên, Nguyễn Ái Tâm sẽ vinh dự được tổ chức này tri ân hạng vàng cho những đóng góp trong nghiên cứu tại miền Trung và Tây Nguyên.

Có thể bạn quan tâm