Nơi Thành đồng Tổ quốc

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Như một giấc mơ, loáng cái, tôi đã có tròn nửa thế kỷ sống, chiến đấu và làm việc trên mảnh đất miền Đông “gian lao mà anh dũng”.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Long Khốt thắp hương các anh hùng liệt sĩ ở khu tưởng niệm. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Long Khốt thắp hương các anh hùng liệt sĩ ở khu tưởng niệm. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN


Nhớ lại những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, khi đang học năm cuối cấp 3, chúng tôi có nhiều lựa chọn: vào đại học, đi nước ngoài, hay nhập ngũ đánh giặc? Chúng tôi đã có sự lựa chọn chuẩn xác. Học là chuyện của cả đời. Nay “nước có giặc thì đi đánh giặc!”. Thế là chúng tôi tạm biệt mái trường cấp 3 Hải Hậu thân yêu vào Nam. Trên đỉnh Trường Sơn, chúng tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đó là lớp đảng viên được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào Nam, chúng tôi được bổ sung vào Trung đoàn 2 (Trung đoàn 174 - Đoàn Cao Bắc Lạng) thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Bước vào Chiến dịch Nguyễn Huệ tháng 4 năm 1972, đơn vị chúng tôi là mũi chủ công tiêu diệt Chi khu Lộc Ninh, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn làm cơ sở xây dựng thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam...

Hồi còn nhỏ chúng tôi đã mê những ca khúc về chiến trường miền Đông Nam bộ như: Tình ca của Hoàng Việt, Xuân chiến khu, Tiếng chày trên sóc Bom Bo của Xuân Hồng... Vào miền Đông, chúng tôi mang theo tâm trạng vừa lạ vừa quen đó. Quen tiếng suối róc rách, quen ánh lửa bập bùng trong ca khúc. Nhưng lạ với những trận B52 hủy diệt; lạ với rừng Tây Ninh trụi lá, nham nhở hố bom vừa trải qua đợt rải thảm chất độc màu da cam - dioxin. Thi ca thì mộng mơ, chiến trường thì khốc liệt. Chúng tôi quen với những trận tập kích và ngay sau đó là việc chôn cất đồng đội. Chúng tôi quen dần với khẩu ngữ chiến trường. Thay vì hỏi thăm đồng đội có khỏe không, thì hỏi rằng: Thằng ấy có còn không? Câu hỏi nghe chát chúa như chuyện trên Trời mà có thật.

Con đường dẫn đến toàn thắng thật nhiều gian nan khốc liệt. Sau khi giải phóng Lộc Ninh, chúng tôi có lệnh hành quân cấp tốc về Đồng bằng sông Cửu Long. Sau này mới biết, để chuẩn bị ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Mỹ rút quân về nước, chúng ta cần mở rộng vùng giải phóng, cứu nhân dân thoát khỏi vùng địch nên phải nhanh chóng chớp thời cơ.

Với tầm chiến lược ấy, suốt mấy năm trời, từ tháng 6 năm 1972 đến tháng 4 năm 1974, Trung đoàn 174 được giao làm mũi chủ công tiến công Chi khu Long Khốt. Thực ra, căn cứ quân sự nằm trên xã Thái Bình Trung thuộc huyện Vĩnh Hưng này không phải là cứ điểm lớn của đối phương, nhưng đó là yết hầu, là địa danh có ý nghĩa chiến lược ở vùng biên giới phía Tây Nam này. Muốn đưa đại quân về Đồng bằng sông Cửu Long phải tiêu diệt được cụm cứ điểm dọc biên giới mà Long Khốt là trọng tâm.

Trận đầu diễn ra không suôn sẻ. “Áo chiến sĩ phơi nhòe đêm trăng” là thế. Có đêm trên cánh đồng Long Khốt, Gò Da, Thái Trị..., chúng tôi phải chôn cất hàng trăm đồng đội. Họ là những “Tân binh C” quân phục Tô Châu chưa bạc màu, môi đỏ như son và nước da học trò chưa rám nắng đã ngã vào lòng đất. Một đêm, tại căn cứ Long Khốt vừa chiếm được của địch, tôi trú chung hầm chiến đấu của chính trị viên đại đội 7 Kim Văn Bút. Trời tối, không nhìn rõ mặt người. Pháo của địch dội tới, tôi thấy nơi mình ngồi lạnh như có nước đá. Vừa cất tiếng thì chính trị viên Bút nói rằng: “Ấy chết, anh ngồi lên người cậu Thúy liên lạc rồi. Cậu ấy hy sinh đêm qua mà chưa đưa thi thể cậu ấy về tuyến sau được”.

Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ mà cái lạnh như nước đá ấy cứ ám ảnh tôi mãi. Thúy là chiến sĩ liên lạc trẻ tuổi, đẹp trai, nhanh nhẹn. Mỗi lần tôi đến công tác tại đại đội 7, Thúy lo cho chúng tôi thật chu đáo, tận tình. Thế mà nay em đã trở thành người thiên cổ “Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai” (thơ Trần Mạnh Hảo). Không chỉ có chiến sĩ liên lạc Thúy ngã xuống. Những ngày sau đó, chúng tôi liên tục chôn cất đồng đội, trong đó có cả những cán bộ như chính trị viên tiểu đoàn Vũ, đại đội trưởng Lật... Long Khốt gai góc, khốc liệt rồi cũng có ngày ta làm chủ. Với cách đánh binh chủng hợp thành, đợt tấn công thứ 2 vào tháng 4 năm 1974, chúng tôi đã giải phóng được Long Khốt. Lại thêm một đêm nữa tôi ngủ tại Long Khốt, dưới làn pháo như bão dông từ gò Măng Đa dội tới. Khoảnh khắc giữa hai trận pháo là phút bình yên đến lạ thường. Chính trị viên tiểu đoàn Bùi Đức Trằn nói chiến sĩ liên lạc Phùng Ngọc Đồng dùng thuyền ba lá chở tôi du ngoạn trên sông Long Khốt. Tôi ngập tràn cảm xúc, như thể chưa bao giờ nơi đây có chiến tranh. Tôi đã có một đêm như thế. Và, sau này từ một người lính cầm súng, tôi trở thành một người lính cầm bút viết về đồng đội, viết về những tháng năm khốc liệt của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, giải phóng và bảo vệ đất nước, có lẽ cũng bắt đầu từ những đêm như thế.

Những ngày này, Quân khu 7 đang chuẩn bị kỷ niệm 75 năm thành lập. Những lát cắt kỷ niệm của tôi với Trung đoàn 174 - Đoàn Cao Bắc Lạng thân yêu mà tôi vinh dự đã có một thời làm lính chợt ùa về. 75 năm, một chặng đường chưa phải là dài so với lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc nhưng với mảnh đất “Miền Đông gian lao mà anh dũng” này thật đáng trân trọng, ghi nhớ. Điều trân trọng, ghi nhớ ấy có được bởi xương máu của biết bao thế hệ quân và dân Quân khu 7 - nơi địa linh sinh nhân kiệt, nơi Thành đồng Tổ quốc!

Theo TRẦN THẾ TUYỂN (SGGPO)
 

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null